A. MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh đã đi xa gần 50 năm, thế giới đã có nhiều thay đổi to lớn.
Nhân loại đang sống trong kỉ nguyên tòan cầu hóa với sự phát triển như vũ bão
của nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Tuy nhiên, tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị thời đại.
Nói đến Hồ Chí Minh là nói đến những điểm tương đồng, mẫu số chung của
nhân loại dù trong thời giải giáp chế độ thực dân, giải phóng thuộc địa hay
trong công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng xã hộ mới, dù trong thời kì “chiến tranh lạnh” hay trong thế giới toàn cầu hóa. Rõ
ràng là trong thế giới ngày này khó tìm ra một nhân vật “trở thành huyền thoại ngay khi còn
sống”, một con người hội đủ cả khát vọng của các dân tộc dù màu da, tiếng
nói, chủng tộc, tôn giáo, văn hóa khác nhau…
Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên
những trang sử vẻ vang nhất của tổ quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh
thần vô giá sẽ mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, của nhân dân
ta. Tử tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn như vậy, nhưng nó được hình thành
trên cơ sở nào.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm
1. Khái niệm tư tưởng
·
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng không phải là ý
thức tử tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống những
quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất
quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình
thành trên cơ sở thực tiễn nhật định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn,
cải tạo hiện thực.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Dựa trên những đinh hướng cơ bản của văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam,
từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hộ chủ nghĩa, là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin và điều kiện cụ thể của
nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhắm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải và giải phóng con người”
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc; về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về Đảng Cộng Sản Việt Nam; về đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ; Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, về văn hóa; đạo đức, vv..
II. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở khách quan
1.1.
Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có
nhiều biến động:
·
Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX:
-Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo
thủ, phản động,.. không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp
với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của dân tộc
và đất nước, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
-Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và Hiệp định Patơnốt (1884)
được ký kết, xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến, thừa
nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
-Cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
“Cần vương” do các văn thân, sỹ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại.
Hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
-Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã
làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo
tiền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế
kỷ XX.
-Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm
rộ, lan rộng ra cả nước nhưng đều thất bại (Chủ trương cầu viện, dùng vũ
trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu; Chủ trương “ỷ Pháp cầu
tiến bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân trí,.. trên cơ sở đó mà dần
dần tính chuyện giải phóng của Phân Chu Trinh; Khởi nghĩa nặng cốt
cách phong kiến của Hoàng Hoa Thám; Khởi nghĩa theo
khuynh hướng tư sản của Nguyễn Thái Học). Phong trào cứu nước
của nhân dân ta muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới. Sự
xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách
mạng Việt Nam.
·
Bối cảnh thời đại (quốc tế)
-CNTB từ cạnh tranh đã chuyển sang độc quyền, xác lập sự thống
trị trên phạm vi thế giới. CNĐQ là kẻ thù chung của tất cả các dân
tộc thuộc địa.
-Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917). “Thức tỉnh của các
dân tộc châu Á”, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại.
-Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong
các nước TBCN và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng
có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là CNĐQ.
-Tất cả các nội dung trên cho thấy, việc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh không chỉ là nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam, mà còn
là tất yếu của cách mạng thế giới.
1.2. Tiền đề tư tưởng-lý
luân:
1.2.1. Giá trị truyền thống dân tộc:
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề
tư tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
– Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí
kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng
chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong
bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ
nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư
tưởng yêu nước đó.
– Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
– Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
– Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có
truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào
sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ
Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.
– Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù,
dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Người việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi,
thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân
dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của
người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và
trọn vẹn của truyền thống đó.
Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu
nước là tư tưởng, tình cảm cao quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ
sáng tạo và lòng dũng cảm của con người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ
bản của dân tộc. Hồ Chí Minh đã đúc kết chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả lũ bán nước và cướp nước”.
1.2.2.
Tinh hoa nhân loại:
Là nét đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh
– Tinh hoa văn hoá phương Đông: Người tiếp thu Đạo phật và Nho giáo
+Về Nho giáo:
Hồ Chí Minh ra đời trong 1 gia đình Nho giáo nên Người đã tiếp thu những quan điểm
tốt đẹp của Nho giáo.Đó là các triết lý hành động,tư tưởng nhập thế ,hành đạo,
giúp đời,đó là ước vọng về một xã hội bình trị ,hòa mục,hòa đồng,là triết lý
nhân sinh ;tu thân dưỡng tính;đề cao văn hóa lễ giáo,tạo ra truyền thống hiếu
học.
Người đánh giá rất cao Khổng Tử. Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng
Tử, khắc chữ lên bia đá: “Khổng Tử là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại”.
Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân
Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân
Người dẫn lời của V.I.Lênin:
“chỉ có những người cách mạng chân
chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”
Có thể nói Hồ Chí Minh đã khai thsc Nho giáo ,lựa chọn những yếu tố tích
cực,phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
+Về phật giáo:
Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã
thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành”
Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng:
Thứ nhất là tư tưởng vị tha ,từ bi bác ái,cứu khổ cứu nạn,thương người
như thể thương thân-một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành
cho cả chim muông cây cỏ.
Thứ hai là nếp sống có đạo đức,trong sạch ,giản dị,chăm lo làm việc
thiện
Thứ ba là tinh thần bình đẳng dân chủ,chống phan biệt đẳng cấp
Thứ tư là phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác” đề cao lao
động,chống lười biếng”nhất nhật bất tác,nhất nhật bất thực”(một ngày không làm
,một ngày không ăn)
Như vậy ,những mặt tích cực của phật giáo đã góp phần hình thành tư
tưởng của Người.
– Trong tinh hoa văn hóa phương Tây:
Người tiếp thu nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ
yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và
cách mạng của phương Tây
khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê
và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người
thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con
người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu
giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng
liêng trong bản tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền
sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân
tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn
Độc lập của Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở
thủ đô nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc
đời mình.
Là thủ đô của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa –
nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật
nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa
nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để
nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn
hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh
được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te,
Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh
thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân
chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngoài ra,
Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ
của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt
động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất
nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt
trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V.
Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con
người ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí
tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao
của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và
phát triển.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây,
những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực dân, tham gia vào
guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền
văn hóa thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, …
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh
hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách
sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không
chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự
nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
1.2.3.
Chủ nghĩa Mác-Lenin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là cơ sở hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái
Quốc – Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính
trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những
nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân
loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì
vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có
vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
Mối quan hệ giữa tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin :
1 – Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, của các đảng cộng sản và công nhân trong đấu
tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách
mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính,
triệt để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản” và “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải
phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết
hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa
yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ
nghĩa Mác – Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất,
“muốn cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa
Lê-nin”. Đối với Người, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là cơ sở thế giới quan, phương
pháp luận khoa học để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người
không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đồng thời kiên quyết chống chủ
nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một nguồn gốc – nguồn gốc chủ yếu
nhất, của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ – bộ phận cơ sở, nền tảng
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư
tưởng Mác – Lê-nin, hay nói cách khác, không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi
nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam,
giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Muốn
bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác – Lê-nin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ,
quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lô-gíc
của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
2 – Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại”
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lấy
chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế
thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, cả phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình
đối với việc học tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã
hội, tôn giáo trong lịch sử. Người nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự
tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tôn Dật
Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giê-su, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung
đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội…”.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác – Lê-nin, bắt
nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa
truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin… Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như
thế nào? Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trở thành
một cán bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã vạch
rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác,
Ph. Ăng-ghen và V.I.Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam – một nước thuộc
địa, nửa phong kiến, nông nghiệp, lạc hậu ở phương Đông. Do đó, cần bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử phương Đông. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ở phương Tây… Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ
sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở
thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết
lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn thể nhân loại… Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô
viết đảm nhiệm”.
Việc tiếp thu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin của Hồ Chí
Minh là cả quá trình gắn với hoạt động thực tiễn, kết hợp lý luận với thực
tiễn, xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn. Người nhấn mạnh rằng, việc học
tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trước hết phải nắm vững “cái cốt lõi”,
“linh hồn sống” của nó là phương pháp biện chứng; học tập “tinh thần, lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lê-nin để áp dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta”. Người còn chỉ rõ: “Hiểu chủ nghĩa Mác –
Lê-nin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lê-nin”.
Từ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận thể hiện tư duy độc lập,
sáng tạo, Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời của mình đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và tạo ra một hệ thống luận
điểm mới, sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ
nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là “Bản
án chế độ thực dân Pháp” (xuất bản năm 1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp
ở Đông Dương” đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát
dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ nỗi
đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa. Đây là những tài liệu “có
một không hai” về chủ nghĩa thực dân; ở đó, sự phân tích về chủ nghĩa thực dân
của Hồ Chí Minh đã vượt hẳn những gì mà những nhà lý luận mác-xít đề cập đến.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là hình ảnh về
“con đỉa hai vòi”, “con chim hai cánh”, đã không chỉ có tác dụng thức tỉnh các
dân tộc thuộc địa, mà còn cảnh tỉnh các đảng cộng sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ tiên phong trong phê phán chủ nghĩa thực
dân, đồng thời cũng là người lãnh đạo dân tộc mình thi hành bản án chôn vùi chủ
nghĩa thực dân ở Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
trên toàn thế giới. Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lê-nin,
viết năm 1920, đã thức tỉnh
Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vì đây là chủ
nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc
bấy giờ trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc địa: Cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách
mạng vô sản chính quốc; cách mạng chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới
được giải phóng, Hồ Chí Minh vốn là người dân thuộc địa, hiểu sâu sắc khát vọng
và tiềm năng, sức mạnh to lớn của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận
điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với
cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể “chủ động đứng lên, đem sức
ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó,
thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận
dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lê-nin một
cách sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó
là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với
toàn thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo… Theo Người, ở
Việt Nam cũng như ở các nước phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát triển
nên sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước
phương Tây. Từ đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc
chân chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước”. Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh
Quốc tế Cộng sản là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi
từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp
ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của cách
mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân,
từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội. Động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn
dân trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo
về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân
cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê-nin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước”. Đảng vừa đại diện cho lợi ích của
giai cấp, vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ
đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí
Minh đã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
Trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm
hoạt động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu
tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam.
Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân,
toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân
chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện,
hiện đại…
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản
thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính vô sản. Vận dụng
sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một cuộc cách mạng từ
giải phóng dân tộc mà phát triển lên, Hồ Chí Minh cho rằng, “mục đích của Quốc
tế Cộng sản là làm thế giới vô sản cách mạng, thiết lập vô sản chuyên chính”,
nhưng chúng ta phải căn cứ vào trình độ chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
mà đề ra đường lối, chiến lược cách mạng phù hợp, “chứ không phải nước nào cũng
phải làm cách mạng vô sản, lập chuyên chính như nhau”. Vì vậy, ngay từ Chánh
cương vắn tắt (1930), Người đã nêu: Thiết lập Chính phủ công nông binh; tổ chức
ra quân đội công nông. Tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), Người đề ra
chủ trương thành lập “một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần Tân dân chủ.
Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng một
giai cấp nào, mà của chung toàn thể dân tộc”.
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và
con người. Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền
Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách
mạng cao và phù hợp với thực tiễn đất nước.
Người chỉ rõ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
“đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân
ta, cho con cháu ta”. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa… Vì vậy, nhiệm vụ
quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp
hiện đại và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sang tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lê-nin nằm trong
sự thống nhất hữu cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng ta, nhân dân ta. Chúng ta không thể lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin thay
cho tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như không thể hiểu và quán triệt, vận dụng sâu
sắc tư tưởng Hồ Chí Minh nếu không nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.
Nhân tố chủ quan
Chủ quan là hoạt động của con người nói chung, của những tập đoàn xã
hội, giai cấp, đảng phái và của từng con người. Nó xuất phát từ bản thân mỗi
chủ thể, là điều kiện tiên quyết trong mỗi hành động của con người. Yếu tố chủ
quan trong hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm ở hai đặc điểm chính.
2.1. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.
Trong suốt những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới
để học tập, nghiên cứu, Người không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm
phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành nên những cơ sở quan
trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của
Người về sau. Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn
hóa và các cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát
thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Nhờ đó mà lý luận Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách
mạng và khoa học.
Sau nhiều năm bôn ba học hỏi trên con đường tìm đường cứu nước gười đã
nhận thức sâu sắc về giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc được thể hiện qua
những luận điểm sau:
-Muốn cứu nước giải phóng dân tộc phải theo học thuyết của Mác.
-Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa có quan hệ mật
thiết với cách mạng vô sản ở chính quốc song không phụ thuộc vào cách mạng ở
chính quốc mà nó có khả năng dành thắng lợi bằng sức mạnh dân tộc.
-Cách mạng giảng phóng là lâu dài gian khổ trước hết là cách mạng giải
phóng dân tộc,giành quyền độc lập tự do.Thực hiện cách mạng dân chủ nhân dân
tạo tiền đề quá độ lên giải phóng xã hội giải phóng con người.
-Cách mạng là sự nghiệp quần chúng
-Cách mạng giải phóng dân tộc phải do chính đảng của giai cấp công nhân
của nhân dân lao động,của dân tộc,được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênnin,có đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức chặt chẽ,có đội ngũ đảng
viên trung thành gương mẫu.
2.2. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn.
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí
Minh. Nhưng chỉ có ở Chủ tịch Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới phát triển trở
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của
Người.
Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với sự nhận xét,
phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu hiện thực cuộc
sống.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú
của nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành
cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khồ,
sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập cùa Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng
bào.
Thứ tư, là một gương đạo đức cao đẹp, trong sáng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, khiêm
nhường.
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra và khái quát trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan
Ngay từ khi còn trẻ. Hồ Chí Minh đã có hoài bảo lớn, có bản lĩnh kiên
định, giàu tình cảm nhân ái và sớm có chí cứu nước, giải phóng đồng bào mình
Vào đầu thế kỷ XX đã có nhiều người Việt Nam sang Pháp và đã có những
người tham gia Đảng xã hội Pháp. Thế nhưng trong số những người Việt Nam yêu
nước ở Pháp vào năm 1920, duy nhất có Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản và
cũng là một công dân thuộc địa tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Tư chất
thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái
mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó
được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người. Nhờ
vậy giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết quan điểm khác
nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp. Hồ chí Minh đã tìm hiểu phân tích,
tổng hợp khái quát tình hình thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên
tạo nên những giá trị của nhân cách văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã tiếp
nhận, chọn lọc, chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại
thành tư tưởng đặc sắc, sáng tạo của mình.
III . KẾT LUẬN
Tóm lại,trong các nguồn gốc trên thì Chủ nghĩa Mác- Lê Nin là cơ sở chủ
yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã cung cấp
cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng khoa học
và cách mạng để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tích lũy kiến
thức tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính Chủ nghĩa Mác -Lê Nin đã giúp
người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời, khắc
phục cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc, vạch ra con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc đúng đắn bằng con đường cách mạng vô sản. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô cùng to lớn và sâu sắc không chỉ góp
phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc ta trong những năm qua mà
còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân
ta. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn đấu tranh để bảo vệ, vận dụng sáng tạo và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là trong sự nghiệp đổi mới, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Nguồn: http://svtm.edu.vn
Nguồn: http://svtm.edu.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét