Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập
hoàn toàn với chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ chính trị kinh tế văn hóa
an ninh quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm
phạm. Đó không chỉ là lí tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của
Hồ Chí Minh, là lí do chiến đấu , là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng , nguồn
động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Quyền độc lập dân tộc là
quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hi sinh đến đâu cũng phải giữ cho
được quyền độc lập ấy.
Hai là, giá
trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do và hạnh
phúc mà nhân dân được hưởng. Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối
thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, giữa các tôn giáo và
tất cả các giai cấp, quần chúng nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước
ngoài.
Ba là, độc
lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu chủ
động tích cực bày tỏ ước vọng và tìm mọi biện pháp để bảo vệ hòa bình tránh
xung đột chiến tranh. Người kêu gọi người pháp vì độc lập tư do hai dân tộc mà
chấm dứt những hành động khiêu khích. Người luôn bày tỏ quan điểm mong muốn đàm
phán vớ pháp để chấm dứt chiến tranh, tránh tổn thương xương máu hai dân tôc.
Quan điểm
của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã
hội là một chế độ nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của
nhân dân để huy động tích cực sang tạo nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lí, làm nhiều
hưởng nhiều làm ít hưởng ít và không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng từ
miền ngược đến miền xuôi. Chủ nghĩa xã hội phải do nhân dân xây dựng và đảng
lãnh đạo.
Quan điểm Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng lẫn
nhau, gắn liền với nhau, phản ánh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá
trình vận động lien tục của cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai
đoạn ứng với nhiệm vụ nhất định của quá trình tiến triển. Điều này đã được Hồ
Chí Minh khẳng định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Việt Nam làm
“ tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản
nhằm đánh đổ chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến làm cho nước ta hoàn toàn độc
lập, dựng ra chính phủ nông binh để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc và chủ nghiã xã hội.
Độc lập dân
tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa chọn duy nhất đúng
mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Trải qua các thăng trầm của lịch
sử, những biến động của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia
Đông Âu, tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ
nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mac- Leenin
đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu tranh cách mạng và
đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề giải phóng dân tộc phải được giải quyết bằng
cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại
tự do hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất cả các dân tộc và toàn thể loài
người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể
xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản, mới
thực hiện sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trên thế giới ra khỏi bất công, tiến
tới tự do, dân chủ công bằng vầ bình đẳng cho con người và loài người. Như vậy,
mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ giữa hai
giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng là
mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài.
Chủ nghĩa xã
hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập. Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ
vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới
về chất của nó, hoàn toàn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ. Không có độc lập dân tộc không
thể có chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và
căn bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Không có chủ nghĩa xã hội
không thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm chắc chắn
nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
Điều kiện để
đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với cnxh ở Việt Nam.
Khác với
các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập với chủ nghĩa phong
kiến( cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa cơ bản ( đầu thế kỷ XX), con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Người đã đưa ra những điều kiện đảm bảo cho độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam
như sau:
Thứ nhất,
trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng
cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm
vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai,
khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng,
Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây
đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn
dân, và nó có một cái tương lai ‘trường xuân bất lão'”.
Thứ ba, sự
ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên
thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí
Minh đã nêu cao chủ trương: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây
thù oán với một ai”.
Ba nhân tố
trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với
nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán
bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào cách mạng Việt
Nam.
Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộilà sự lựa chọn tất yếu dành cho cách mạng Việt
Nam.
Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí
Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương
thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập
dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc
không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta
vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân
tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX
cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi
thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối
đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng,
do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc
khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong
biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời:
“Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước
mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra
đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước
để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với
tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách
mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởiđồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra
đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ
nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng
lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với
Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản
ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều
kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là
sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn
nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc
khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động
khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là
giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá
trình cách mạng , ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu
trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua
một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót
sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là
giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho
dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực
hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện
đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo
vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu
nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi mà dân được ăn no, mặc đủ”Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải
hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người”Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ
trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.
Tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải
quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân.
Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực
giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông
đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong
kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn
này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp
và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách
mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa
là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn
quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là
ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục
tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lêncủacách mạng Việt Nam – một cuộc
cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách
mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm
vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của
Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải
độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ
cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là
đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân
chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định
quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân
chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy
nhau, song trước hết cần trung vào lược độc lập dân tộc vì nó giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thểnhân dân ta với đế quốc xâm. Giải quyết mâu
thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa
nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư
tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân
chủ vàchủnghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển
tất yếu của mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi
đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và
của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù
hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp
lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người
không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích
rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân
lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu,
dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ
cho nhân dân và
hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội,
Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không
lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được
xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần
ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” Chúng ta có quyền khẳng định rằng
bài học ĐLDT gắn liền với CNXH là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của
thời đại cũng như của nước ta, không chỉ là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trước đây mà còn chỉ ra những yếu tố đảm bảo tính đúng đắn của đường
lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Nhìn lại
lịch sử Việt Nam, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng, nhân dân ta là
hoàn toàn đúng đắn, chính xác. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH.
Đại hội IX
đã khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của
Đảng viên hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Namtheo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di bất dịch của
nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tiến lên chủ
nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội
gắn liền với độc lập dân tộc.Đây là nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ đường lối cách mạng nước ta. Đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng
quy luật tất yếu của lịch sử. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH dựa trên cơ sở khách quan của lịch sử: Ngay từ khi thực dân Pháp xâm
lược Việt Nam, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại chúng. Rất
nhiều phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sỹ phu và các
nhà yêu nước đã thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Vấn đề độc lập vẫn
không giải quyết được, trước hết là do khôg có một đường lối cách mạng đúng đắn
dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học.
Trong bối
cảnh đó chưa bao giờ như lúc ấy độc lập dân tộc càng trở nên yêu cầu cơ bản,
khách quan của xã hội Việt Nam. Bằng con đường nào ta có thể gánh vác sứ mệnh
này? Đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa cách mạng nhất, chân chính nhất
và khoa học nhất. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức điều đó.
Năm 1930,
vừa mới ra đời, Đảng ta tuyên bố: “chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, lời tuyên bố đó cũng đồng nghĩa với
sự bác bỏ thẳng thừng chế độ tư bản chủ nghĩa.
Năm 1954,
hoà bình được lập lại, một trong những đặc điểm lớn nhất lúc bấy giờ của Tổ
quốc là đất nước tạm thời bị chia cắt hai miền, với hai chế độ chính trị đối
lập. Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, với lợi ích
dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết một cách hài
hoà mối quan hệ giữa cách mạng hai miền: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc;
giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả
nước vào năm 1975.
Tiếp tục nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH là bài học quan
trọng nhất của Đảng trong điều kiện mới.
Trong công
cuộc đổi mới và xây dựng CNXH hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng ĐLDT và CNXH
mang một nội dung mới, đó là ĐLDT thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh
tế, văn hoá, đối ngoại. ĐLDT thực sự đòi hỏi phải xoá bỏ tình trạng áp bức, bóc
lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và
tinh thần. Độc lập phải gắn liền với tự do và bình đẳng.
Bản chất của
CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người.
CNXH thực
hiện ĐLDT để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, phát
triển phong phú đa dạng về văn hoá, tinh thần, thực hiện đầy đủ nhất quyền lực
của nhân dân. Chỉ với CNXH thì ĐLDT mới đạt tới chân giá trị của nó là hướng
tới phục vụ lợi ích và quyền lực của người lao động. Chính điều đó làm cho nền
tảng của độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền ĐLDT càng đầy
đủ và vững mạnh.
Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta từ trước đến
nay, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của tình hình kinh tế và chính trị thế
giới, cũng như quá trình phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế như hiện nay ở nước ta.
Ngay từ khi
ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử dân tộc hơn 80 năm qua
đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng và cũng chính là
sự lựa chọn của nhân dân.Đi lên chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt trong
đường lối cách mạng Việt Nam. Không phải chỉ khi giành được chính quyền, đất
nước hòa bình, nhiệm vụ kiến quốc đặt lên hàng đầu, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội mới được đặt ra mà ngay cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền,
khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu thì đi lên chủ nghĩa xã
hội đã là mục tiêu, là sự lựa chọn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay,
trong bối cảnh phức tạp mới của tình hình, khi mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, còn
chủ nghĩa tư bản thì tiếp tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế thì vấn
đề con đường xã hội chủ nghĩa lại được đặt ra cả trên bình diện quốc tế và ở
nước ta.
Ở nước ta,
bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta
giành được trong 25 năm đổi mới, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan
liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để
ngăn chặn, đẩy lùi; tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào chủ
nghĩa Mác-Lênin, vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa… Bên cạnh đó,
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh âm mưu và hoạt
động “diễn biến hòa bình” kết hợp gây bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, Nhà
nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình
hình đó, các thế lực cơ hội chính trị và một số người muốn phủ nhận con đường
xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đại diện cho
con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường không có
tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ
phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”; “lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng” hoặc “chủ nghĩa
nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu nước mạnh”. Chúng ta thử phân tích
những quan điểm trên đây. Trong thời kỳ trước đây, ở nước ta, các triều đại
phong kiến tiến bộ đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên
thế giới, chủ nghĩa xã hội được đặt ra về lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra
đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Do đó, nếu đặt vấn
đề về chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại phong kiến là phi lịch sử và
cũng không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta
trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Còn những
quan điểm phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có cái nhìn sai lệch
về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nó cường điệu những thành tựu của chủ
nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản; mặt khác họ định kiến với chủ nghĩa xã hội, với những sai lầm mà
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này, hoặc nước kia đã mắc
phải. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình
chủ nghĩa xã hội Xô viết trước đây, không thấy những thành tựu đổi mới chủ
nghĩa xã hội đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu ba. Như chúng ta đã
chứng kiến, chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều
cuộc khủng hoảng và suy thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội
ác cho loài người (chiến tranh xâm lược, nạn khủng bố, hủy diệt, phân biệt
chủng tộc…), song đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện đại, thúc
đẩy nền văn minh nhân loại.
Chủ nghĩa tư
bản là một chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, song hiện tại vẫn còn tiềm
năng phát triển, nhất là về kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa
học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản
lý, thay đổi cơ cấu sản xuất điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã
hội. Tuy vậy, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản nhất là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động – chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc… Đặc
biệt, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm
2008-2009 và cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay là cuộc khủng hoảng lớn nhất của
chủ nghĩa tư bản trong 80 năm qua và là một cuộc khủng hoảng nhiều mặt: tài
chính, tiền tệ, thương mại, cơ cấu, thể chế và mô hình phát triển. Chủ nghĩa tư
bản hiện đại về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Chủ
nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn nan giải của mình,
muốn giải quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ
hơn, nhân đạo hơn, đó là chủ nghĩa xã hội (đổi mới). Đúng như Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, chính sự vận động của những
mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận
mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Còn chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, có nguyên nhân khách quan và
chủ quan mang tính lịch sử – cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển,
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về
nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới,
cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng
do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa
xã hội, lại mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối cải tổ, cộng với
sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung, mà chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình chủ nghĩa xã
hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp
của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới, những giá trị
cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Sau trận
động đất chính trị đó, các nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa còn
lại vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số nước tiến
hành cải cách đổi mới giành được những thành tựu to lớn; phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế từng bước được phục hồi, có sự tập hợp lực
lượng mới; phong trào “cánh tả” ở Tây Âu và Mỹ Latinh
có bước phát triển mới, phong trào “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” nổi lên ở
nhiều nước Mỹ Latinh.
Còn việc
chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không phải là do ý muốn chủ quan
của Đảng mà đây là tổng hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế
và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc.
Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn của chính lịch
sử từ hơn 80 năm về trước. Năm 1930, giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé
về kinh tế, non yếu về chính trị, không nắm được vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, vai trò
của nó cũng chấm dứt. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo
cách mạng, đặt nền móng cho con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1945,
Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Năm 1954,
hoàn thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền
Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975,
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1986,
trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới đứng trước nguy cơ tan rã và khủng hoảng kinh
tế – xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới,
tạo một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhờ công cuộc đổi mới 25 năm qua, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản bộ mặt đất nước,
tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc
tế.
Có thể khẳng
định rằng, các sự kiện trong những năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở
thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa, tạo thành sợi dây lôgíc – lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Lịch sử cận đại và hiện đại nước ta đã khẳng định, con đường
cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Đảng Cộng sản chân
chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền chủ
nghĩa xã hội. Có vậy, độc lập dân tộc mới triệt để. Chống đế quốc tức là chống
áp bức, bóc lột, mà muốn chống áp bức, bóc lột triệt để phải xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Con đường tư bản chủ nghĩa là con đường đầy rẫy
khuyết tật, là con đường đầy máu và nước mắt nên chúng ta không thể lựa
chọn con đường đó. Đảng Cộng sản ViệtNam là một Đảng Mác-Lênin chân chính, do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, luôn gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có
nhiều kinh nghiệm cách mạng, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên,
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, điều kiện tiên quyết, yếu tố quyết
định là Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và
đạo đức; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. Toàn Đảng và mỗi cán
bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường
lối đổi mới, không dao động trong bất cứ tình huống nào. Phải có những giải
pháp hữu hiệu để chống lại sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
trong cán bộ, đảng viên, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong nội bộ ta,
kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch. Đó cũng chính là yêu cầu tiếp tục rèn luyện, nâng cao bản
lĩnh chính trị của Đảng và cán bộ, đảng viên. Có như vậy, Đảng mới có đủ
sức chiến đấu trước những tác động không thuận lợi của tình hình trong
nước và thế giới.
TONG KET
Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, xuyên suốt quá trình cách
mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam đã lựa
chọn. Theo Người, giành được độc lập dân tộc rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội, vì chủ nghĩa xã hội là “ làm sao cho dân giàu, nước mạnh, là mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do thật sự, triệt để”. Độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc diễn ra khi Người đọc được Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin vào tháng 7 năm 1920. Người đã tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm
lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội;
cách mạng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào đất
nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được
hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, ta
khẳng định rằng “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt
lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nguồn: http://svtm.edu.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét