Chuyển đến nội dung chính

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC



Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn với chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ chính trị kinh tế văn hóa an ninh quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Đó không chỉ là lí tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lí do chiến đấu , là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng , nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hi sinh đến đâu cũng phải giữ cho được quyền độc lập ấy.
Hai là, giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do và hạnh phúc  mà nhân dân được hưởng. Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, quần chúng nhân dân trong nước và kiều bào ta ở  nước ngoài.
Ba là, độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu chủ động tích cực bày tỏ ước vọng và tìm mọi biện pháp để bảo vệ hòa bình tránh xung đột chiến tranh. Người kêu gọi người pháp vì độc lập tư do hai dân tộc mà chấm dứt những hành động khiêu khích. Người luôn bày tỏ quan điểm mong muốn đàm phán vớ pháp để chấm dứt chiến tranh, tránh tổn thương xương máu hai dân tôc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động tích cực sang tạo nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lí, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít và không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng từ miền ngược đến miền xuôi. Chủ nghĩa xã hội phải do nhân dân xây dựng và đảng lãnh đạo.
Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, gắn liền với nhau, phản ánh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá trình vận động lien tục của cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với nhiệm vụ nhất định của quá trình tiến triển. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Việt Nam làm “ tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản nhằm đánh đổ chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ nông binh để  đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghiã xã hội.
Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử là sự lựa chọn duy nhất đúng mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Trải qua các thăng trầm của lịch sử, những biến động của thời cuộc, những chao đảo ngả nghiêng của các quốc gia Đông Âu, tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh tiếp nhận từ chủ nghĩa yêu nước chân chính với thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mac- Leenin đã làm nên nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong 70 năm đấu tranh cách mạng và đổi mới đất nước hôm nay. Vấn đề giải phóng dân tộc phải được giải quyết bằng cách mạng vô sản gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới có thể đem lại tự do hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho tất cả các dân tộc và toàn thể loài người trên trái đất. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản, mới thực hiện sự giải phóng hoàn toàn và triệt để đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trên thế giới ra khỏi bất công, tiến tới tự do, dân chủ công bằng vầ bình đẳng cho con người và loài người. Như vậy, mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ giữa hai giai đoạn, hai thời kỳ của cùng một quá trình cách mạng và đồng thời cũng là mối quan hệ giữa hai loại mục đích: mục đích trước mắt và mục đích lâu dài.
Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc độc lập. Chủ nghĩa xã hội không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc, mà về cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất của nó, hoàn toàn có cơ sở để nói rằng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là chân lý không thể bác bỏ. Không có độc lập dân tộc không thể có chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết và căn bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Không có chủ nghĩa xã hội không thể có độc lập dân tộc bền vững. Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm chắc chắn nhất, bền vững nhất cho nền độc lập dân tộc.
Điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với cnxh ở Việt Nam.
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập với chủ nghĩa phong kiến( cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa cơ bản ( đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người đã đưa ra những điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam như sau:
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai ‘trường xuân bất lão'”.
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh  vào cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hộilà sự lựa chọn tất yếu dành cho cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước  đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với  lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân  tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có  khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là  không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp  xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta,  các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non  sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởiđồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc

của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng , ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt  cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô  hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân  tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần  phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân.  Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải  quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là  công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là  tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lêncủacách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu  hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao  giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là  đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ  trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm  chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần  trung vào lược độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thểnhân dân ta với đế quốc xâm. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ vàchủnghĩa  xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.

Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông  nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá  độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người  không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất  cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động.  Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng  người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và

hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người  giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày  càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” Chúng ta có quyền khẳng định rằng bài học ĐLDT gắn liền với CNXH là sự phản ánh sinh động xu thế cách mạng của thời đại cũng như của nước ta, không chỉ là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước đây mà còn chỉ ra những yếu tố đảm bảo tính đúng đắn của đường lối và sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam, chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng, nhân dân ta là hoàn toàn đúng đắn, chính xác. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH.
Đại hội IX đã khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên CNXH, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng viên hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Namtheo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di bất dịch của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc.Đây là nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Đi lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tất yếu của lịch sử. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên cơ sở khách quan của lịch sử: Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại chúng. Rất nhiều phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sỹ phu và các nhà yêu nước đã thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Vấn đề độc lập vẫn không giải quyết được, trước hết là do khôg có một đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học.
Trong bối cảnh đó chưa bao giờ như lúc ấy độc lập dân tộc càng trở nên yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam. Bằng con đường nào ta có thể gánh vác sứ mệnh này? Đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa cách mạng nhất, chân chính nhất và khoa học nhất. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức điều đó.
Năm 1930, vừa mới ra đời, Đảng ta tuyên bố: “chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, lời tuyên bố đó cũng đồng nghĩa với sự bác bỏ thẳng thừng chế độ tư bản chủ nghĩa.
Năm 1954, hoà bình được lập lại, một trong những đặc điểm lớn nhất lúc bấy giờ của Tổ quốc là đất nước tạm thời bị chia cắt hai miền, với hai chế độ chính trị đối lập. Trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, với lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa cách mạng hai miền: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước vào năm 1975.
Tiếp tục nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH là bài học quan trọng nhất của Đảng trong điều kiện mới.
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng ĐLDT và CNXH mang một nội dung mới, đó là ĐLDT thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hoá, đối ngoại. ĐLDT thực sự đòi hỏi phải xoá bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Độc lập phải gắn liền với tự do và bình đẳng.
Bản chất của CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
CNXH thực hiện ĐLDT để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, phát triển phong phú đa dạng về văn hoá, tinh thần, thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với CNXH thì ĐLDT mới đạt tới chân giá trị của nó là hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của người lao động. Chính điều đó làm cho nền tảng của độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền ĐLDT càng đầy đủ và vững mạnh.
 Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta từ trước đến nay, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của tình hình kinh tế và chính trị thế giới, cũng như quá trình phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay ở nước ta.
Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử dân tộc hơn 80 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân.Đi lên chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Không phải chỉ khi giành được chính quyền, đất nước hòa bình, nhiệm vụ kiến quốc đặt lên hàng đầu, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mới được đặt ra mà ngay cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu thì đi lên chủ nghĩa xã hội đã là mục tiêu, là sự lựa chọn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, trong bối cảnh phức tạp mới của tình hình, khi mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, còn chủ nghĩa tư bản thì tiếp tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế thì vấn đề con đường xã hội chủ nghĩa lại được đặt ra cả trên bình diện quốc tế và ở nước ta.
Ở nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong 25 năm đổi mới, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi; tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa… Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” kết hợp gây bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình đó, các thế lực cơ hội chính trị và một số người muốn phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đại diện cho con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”; “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng” hoặc “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu nước mạnh”. Chúng ta thử phân tích những quan điểm trên đây. Trong thời kỳ trước đây, ở nước ta, các triều đại phong kiến tiến bộ đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội được đặt ra về lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Do đó, nếu đặt vấn đề về chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại phong kiến là phi lịch sử và cũng không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Còn những quan điểm phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có cái nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nó cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản; mặt khác họ định kiến với chủ nghĩa xã hội, với những sai lầm mà trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này, hoặc nước kia đã mắc phải. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết trước đây, không thấy những thành tựu đổi mới chủ nghĩa xã hội đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu ba. Như chúng ta đã chứng kiến, chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và suy thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội ác cho loài người (chiến tranh xâm lược, nạn khủng bố, hủy diệt, phân biệt chủng tộc…), song đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện đại, thúc đẩy nền văn minh nhân loại.
Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, song hiện tại vẫn còn tiềm năng phát triển, nhất là về kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và lao động – chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc… Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2008-2009 và cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay là cuộc khủng hoảng lớn nhất của chủ nghĩa tư bản trong 80 năm qua và là một cuộc khủng hoảng nhiều mặt: tài chính, tiền tệ, thương mại, cơ cấu, thể chế và mô hình phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn nan giải của mình, muốn giải quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn, nhân đạo hơn, đó là chủ nghĩa xã hội (đổi mới). Đúng như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Còn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, có nguyên nhân khách quan và chủ quan mang tính lịch sử – cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội, lại mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối cải tổ, cộng với sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội – mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới, những giá trị cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Sau trận động đất chính trị đó, các nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số nước tiến hành cải cách đổi mới giành được những thành tựu to lớn; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từng bước được phục hồi, có sự tập hợp lực lượng mới; phong trào “cánh tả” ở Tây Âu và Mỹ Latinh có bước phát triển mới, phong trào “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” nổi lên ở nhiều nước Mỹ Latinh.
Còn việc chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không phải là do ý muốn chủ quan của Đảng mà đây là tổng hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn của chính lịch sử từ hơn 80 năm về trước. Năm 1930, giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, non yếu về chính trị, không nắm được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, vai trò của nó cũng chấm dứt. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đặt nền móng cho con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Năm 1954, hoàn thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đứng trước nguy cơ tan rã và khủng hoảng kinh tế – xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới, tạo một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ công cuộc đổi mới 25 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản bộ mặt đất nước, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, các sự kiện trong những năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, tạo thành sợi dây lôgíc – lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lịch sử cận đại và hiện đại nước ta đã khẳng định, con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Có vậy, độc lập dân tộc mới triệt để. Chống đế quốc tức là chống áp bức, bóc lột, mà muốn chống áp bức, bóc lột triệt để phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Con đường tư bản chủ nghĩa là con đường đầy rẫy khuyết tật, là con đường đầy máu và nước mắt nên chúng ta không thể lựa chọn con đường đó. Đảng Cộng sản ViệtNam là một Đảng Mác-Lênin chân chính, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có nhiều kinh nghiệm cách mạng, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, điều kiện tiên quyết, yếu tố quyết định là Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, không dao động trong bất cứ tình huống nào. Phải có những giải pháp hữu hiệu để chống lại sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong nội bộ ta, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đó cũng chính là yêu cầu tiếp tục rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng và cán bộ, đảng viên. Có như vậy, Đảng mới có đủ sức chiến đấu trước những tác động không thuận lợi của tình hình trong nước và thế giới.
TONG KET
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn. Theo Người, giành được độc lập dân tộc rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội là “ làm sao cho dân giàu, nước mạnh, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do thật sự, triệt để”. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc được Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin vào tháng 7 năm 1920. Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc từng nước gắn với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào đất nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, ta khẳng định rằng “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Nguồn: http://svtm.edu.vn

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân...

Tư tưởng của Bác Hồ về vai trò phụ nữ trong xã hội

Tư tưởng nhất quán xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ là nhằm mục đích cao nhất giải phóng con người và ra sức tranh đấu để đòi lại những quyền thiêng liêng của con người. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng cho họ. Những tư tưởng của Người về vấn đề giải phóng phụ nữ vẫn còn nguyên giá trị. ác Hồ tặng hoa cho 3 nữ dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh (24/9/1968) . (Nguồn ảnh:  www.baotanghochiminh.vn ) Trong tư tưởng của Người về phụ nữ được xuất phát từ tình cảm đặc biệt đối với những người phụ nữ nói chung và từ thực trạng bất bình đẳng của phụ nữ dưới chế độ phong kiến, sự cai trị thâm độc của thực dân Pháp đối với nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bác Hồ luôn đánh giá cao vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam và cho chúng ta thấy những nhà kinh điển của chủ n...

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu ...