Chuyển đến nội dung chính

Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm "Đạo đức cách mạng" (năm 1958)

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, kiệt xuất, đã để lại một di sản đồ sộ về đạo đức cách mạng, trong đó có tác phẩm Đạo đức cách mạng. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 55 ngày tác phẩm lần đầu tiên được công bố, lớp cao học Hồ Chí Minh học khóa 19 tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm “Đạo đức cách mạng” (năm 1958). Đây là một tác phẩm lớn của Hồ Chí Minh có giá trị nhiều mặt cả về lý luận và thực tiễn. Tại cuộc hội thảo này, Ban tổ chức định hướng một số nội dung chính để cùng nghiên cứu và trao đổi.
1. Bối cảnh lịch sử ra đời, chủ đề tư tưởng, kết cấu của tác phẩm
a) Bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Tác phẩm Đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh Trần Lực, đăng trên tạp chí Học tập, số 12 năm 1958.
Từ khi chuẩn bị thành lập Đảng cho đến khi chuẩn bị cho chuyến đi xa về cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc. Bởi vậy, Đảng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, còn ở miền Nam - cuộc đấu tranh giải phóng vẫn còn tiếp tục. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước càng đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu cao độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, trong những năm miền Bắc khôi phục kinh tế, văn hoá, xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tâm trạng thời bình, biểu hiện suy thoái và cá nhân chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã không dừng lại ở hiện tượng đơn lẻ, đó đã là căn bệnh, trở thành nguy cơ của một Đảng cầm quyền.
Nhận thức rõ những gian nan, trắc trở, những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt, và sớm tiên liệu được tình hình, tháng 12-1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Đạo đức cách mạng.
b) Chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Tác phẩm Đạo đức cách mạng khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù, những nguy cơ của đạo đức cách mạng, đồng thời nêu rõ những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh đó.
c) Kết cấu của tác phẩm
Về hình thức, tác phẩm không ghi thành đề mục nhưng được chia làm ba phần lớn. Về nội dung, tác phẩm tập trung phân tích các vấn đề:
+ Vai trò của đạo đức cách mạng và kẻ thù của đạo đức cách mạng;
+ Nội dung cơ bản và những chuẩn mực của đạo đức cách mạng;
+ Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
2. Nội dung cơ bản của tác phẩm
Mở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lịch sử cuộc đấu tranh của con người với giới tự nhiên và lao động sản xuất để sinh tồn. Khẳng định vai trò sức mạnh của số đông, của tập thể, của xã hội, Người nhấn mạnh: Trong thời đại văn minh, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội. Do đó, “chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”[1]. Đồng thời, Người cũng khẳng định: Sự phát triển của các phương thức sản xuất, sự tiến bộ của xã hội loài người từ công xã nguyên thuỷ đến cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lịch sử, xã hội xuất hiện giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, giữa “bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc” và “những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân” ngày càng quyết liệt. Vì vậy, để giành lấy thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, vì đó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Điều này đã được lịch sử chứng minh.
a) Vai trò của đạo đức cách mạng và kẻ thù của đạo đức cách mạng
Nhận thức rõ tính chất quyết liệt, cam go của cuộc đấu tranh giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Vì vậy, người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng, vì “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[2]. Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước, vì lợi ích chung mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình và “đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”2. Đạo đức cách mạng giúp mỗi người khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không lo kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá, v.v..
Trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, Người khẳng định: đã có rất nhiều những người con ưu tú của Đảng như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v. đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng, chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người cách mạng phải hiểu sâu sắc: Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, đồng thời là người lãnh đạo cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử vừa cải tạo thế giới vừa cải tạo bản thân mình, vì vậy, Người nêu rõ: Trong bối cảnh nhân dân miền Bắc tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng, hơn bao giờ hết, càng cần phải có những người cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, dù là tập thể của những con người tiên phong nhất, song Đảng cũng là một thực thể xã hội và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cũng là những con người cụ thể. Đặc biệt hơn, là một Đảng kiểu mới được xây dựng và phát triển ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, những cán bộ, đảng viên của Đảng, vốn sinh trưởng trong xã hội cũ, nên vẫn mang trong mình hoặc nhiều, hoặc ít vết tích của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen... Đó là những “vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ”, đó chính là chủ nghĩa cá nhân, là trái ngược với đạo đức cách mạng, và nếu nó còn lại trong mình, “dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”[3]. Vì vậy, Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”2, và đó là kẻ thù của đạo đức cách mạng. Mục tiêu của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân đấu tranh để đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam “không còn ai bị bóc lột”, “trong đó mọi người được sung sướng, ấm no”3. Để giành được thắng lợi trong chặng đường đầy chông gai, trắc trở này, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấm nhuần và thường xuyên tu dưỡng đạo đức, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nông dân lao động.
Người nhấn mạnh: Đạo đức cách mạng “là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”4. Theo Người, lời nói và việc làm của đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Vì vậy, trong bất kỳ tình huống khó khăn nào, cán bộ, đảng viên cũng phải kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Người kết luận: Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động. Đảng viên là người thay mặt Đảng, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, vì vậy, lợi ích của đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp và “vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”[4].
b) Nội dung cơ bản và những chuẩn mực của đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh khẳng định những nội dung cốt lõi nhất của đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tu dưỡng, phấn đấu rèn luyện để có được trong cuộc đời hoạt động của mình là:
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”[5].
Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng.
Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch. Kẻ địch bao gồm ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc; thói quen và truyền thống lạc hậu; chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản dưới mọi hình thức.
Từ đó, Hồ Chí Minh khái quát thành các chuẩn mực đạo đức cụ thể, bao gồm: các quan hệ đối với mình, đối với người và đối với công việc.
c) Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cá nhân
Sau khi nêu rõ vai trò của đạo đức cách mạng, chỉ rõ kẻ thù của những người cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Cuộc sống “thời bình” của miền Bắc trong những năm qua đã làm không ít người lầm tưởng rằng cách mạng đã thành công, do đó mà họ để “chủ nghĩa cá nhân chớm nở”. Bên cạnh những người vẫn thường ngày rèn luyện đạo đức cách mạng, đã có không ít người thoái hoá, biến chất, chỉ lo yêu cầu hưởng thụ, nghỉ ngơi, lựa chọn công tác theo ý thích của cá nhân mình, muốn địa vị cao, nhưng lại sợ trách nhiệm nặng, v.v.. Họ quên rằng “tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”[6], do đó tinh thần đấu tranh và tính tích cực của họ bị kém sút, chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng cũng kém sút, sự tiên phong gương mẫu của họ cũng không còn.
Từ những biểu hiện tiêu cực nêu trên, Người nói rõ: Cách thức để gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, chống lại chủ nghĩa cá nhân là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phải thường xuyên, liên tục, ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Người quan niệm, trong mọi hoạt động cách mạng, dù đó là thời kỳ hoạt động bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến, hay công cuộc xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, tất cả “đều là những trường học rất tốt cho chúng ta rèn luyện đạo đức cách mạng”2.
Nêu ra hiện tượng một số cán bộ, đảng viên vì chưa rửa gột sạch chủ nghĩa cá nhân, nên còn "kể công" với Đảng, muốn Đảng "cảm ơn", đòi ưu đãi, và cho rằng họ "không có tiền đồ", họ "bị hy sinh", Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: đó là những người dần dần “xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”[7]. Người cũng chỉ rõ những biểu hiện khác như: có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại. “Họ phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình họ; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh. Họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín. Họ không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng”2, v.v.. Người kết luận: “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình thì nhất định lạc hậu, thoái bộ,... bị quần chúng bỏ rơi. Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân”3.
 Mặt khác, Người cũng nói: Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí, họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh và “kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”4. Họ trở nên có tội với cách mạng, bởi họ không “thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”5. Họ quên mất, “trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình”[8].
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam là yêu cầu cấp bách của lịch sử, đó cũng đồng thời là nhiệm vụ của toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Tuy nhiên, khi khẳng định phải chống kẻ địch nội xâm là chủ nghĩa cá nhân, Người cũng không quên nhấn mạnh: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, từ đó, Người cũng khẳng định: “Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”2. Vì vậy, đối với những người cách mạng, lợi ích của cá nhân luôn gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể thì người cách mạng phải phục tùng lợi ích chung của tập thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”[9]. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin, bởi “có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công tác Đảng giao phó cho mình”[10]. Theo Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn”3, chứ không phải là học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin “để trang sức”, học không vận dụng vào công việc cách mạng. Đó cũng là chủ nghĩa cá nhân.
Người kết luận: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng mẹ, đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... trói buộc, bịt mắt những nạn nhân của nó, khuyến khích lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân, không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Đó thực sự là kẻ thù nội xâm, “một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”[11]. Cuối cùng, Người khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất nước nhà, là một nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang, song cũng đầy gian nan, trắc trở, vì vậy để bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, “tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng”2.
3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm 
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta về với thế giới người hiền, Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng viết: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, Người còn là một trong những người hiếm có, được lịch sử giao phó, Người tiêu biểu cho một nền đạo đức mới, đạo đức mácxít mang đầy nhân tính sâu sắc và đầy tinh thần xả thân quên mình. Theo tư tưởng của Người, không thể có một đảng luôn trong sạch, luôn vững mạnh, lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh xã hội chủ nghĩa nếu không có một đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn thấm nhuần sâu sắc tinh thần đạo đức cách mạng.
Thấm nhuần những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin nhưng khác với Mác luôn thực hành sâu sắc nguyên tắc để lý luận thâm nhập vào thực tiễn sẽ trở thành sức mạnh; khác với Lênin luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng một tổ chức cách mạng làm điểm tựa, Hồ Chí Minh chú trọng đến phẩm chất đạo đức và sự nêu gương của những người cách mạng.
Người quan niệm đạo đức là gốc của người cách mạng, và khi người cách mạng có lý luận Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, được rèn luyện trong một tổ chức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng thì nguồn sức mạnh nội lực của mỗi người sẽ được nhân lên bội phần. Từ định hướng đó, trong những năm 1925 - 1927, từ bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, Hồ Chí Minh, khi đó là Nguyễn Ái Quốc, lần đầu tiên đã đưa ra 23 điều răn, thể hiện rõ ba mối quan hệ (đối với mình, đối với người và đối với công việc) làm chuẩn mực của đạo đức cách mạng trong mục “Tư cách một người cách mệnh”. Sau đó, nội dung hàm chứa sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không ham hư danh, không màng danh lợi, v.v. của những người cách mạng đã được in trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927) tại Quảng Châu, và tiếp đó được nhắc lại dưới nhiều hình thức trong các bài viết, các tác phẩm như: Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (năm 1945), Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (năm 1947), Thư gửi các đồng chí Trung Bộ (năm 1947), Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Cần kiệm liêm chính (năm 1949); Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (năm 1952), Đạo đức cách mạng (năm 1958), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969), v.v..
Trong mỗi thời điểm lịch sử, mỗi bước chuyển của sự nghiệp cách mạng và đi liền cùng đó là những khó khăn, thử thách ngày một khắc nghiệt xuất hiện trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ nhận thức sâu sắc của mình quan tâm đặc biệt đến vấn đề đạo đức cách mạng, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của đội ngũ cán bộ, đảng viên để thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh. Với Người, dù còn hoạt động bí mật, bị giam cầm trong nhà tù đế quốc hay khi đã trở thành một nguyên thủ quốc gia, một Chủ tịch Đảng cũng vẫn là một Hồ Chí Minh không chỉ thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng chống tư tưởng ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, lãng phí, xa hoa mà còn luôn mẫu mực trong thực hiện, đồng thời thường xuyên đưa ra những cảnh báo về căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân cùng những phương thuốc đặc trị chúng.
Cùng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Đi liền cùng đó là một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng được giao trọng trách giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước và các cơ quan của Đảng và quyền lực, danh vị, những đặc quyền, đặc lợi cùng nguy cơ thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng đã xuất hiện. Ngay khi miền Bắc bước vào cải tạo xã hội chủ nghĩa, bắt đầu xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, chúng ta có ba kẻ địch: chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù số một nguy hiểm; thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to thứ hai; chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản là kẻ địch thứ ba luôn ẩn nấp trong mỗi con người và là đồng minh của hai kẻ địch kia. Trong đó, kẻ địch thứ ba tuy không nhìn rõ hình dạng, nhưng luôn rình rập quanh ta, dễ phá ta.
Vì thế, trong tác phẩm này, Người nói rất rõ rằng, do cá nhân chủ nghĩa mà không ít người mang trong mình những căn bệnh, những thói hư, tật xấu như: "không lo mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình"; "ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa"[12]; “tham danh trục lợi" nên chỉ thích địa vị quyền hành, họ chỉ mong nhận được bổng lộc mà quên đi kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Họ "tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh" mà trở thành xa lạ với nhân dân. Họ “không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”[13], nên trở thành người "thoái bộ". Họ thực sự là những kẻ có tội với cách mạng và nhân dân. Là những người đã từng quên thử thách của nếm mật, nằm gai trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền và những gian khổ hy sinh trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giờ đây họ ngại khó, ngại khổ, ngại sự phấn đấu hy sinh, ngại học tập để tiến bộ, tự cho mình quyền được hưởng thụ, quyền được “làm cha mẹ của dân” không phải là đày tớ của nhân dân như lãnh tụ Hồ Chí Minh từng mong muốn.
Đã từng một thời là đồng đội, đồng chí và gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, che chở, nhưng vì mang nặng chủ nghĩa cá nhân, họ tự cho mình là cấp trên, họ ưa mệnh lệnh, chụp mũ người khác. Không thích tự phê bình và phê bình, họ sợ mất thể diện trước quần chúng, không thực hiện dân chủ trong Đảng, càng không lắng nghe ý kiến của quần chúng và do "cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết", "làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân". "Do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”, họ là những người chỉ biết nghĩ đến mình, đến lợi ích của gia đình, dòng tộc mình mà ưa những người cánh hẩu, địa phương chủ nghĩa, kéo bè, kéo cánh, xa rời và coi thường quần chúng. Người vô tình, người hữu ý, song tất cả họ đều là những "con sâu mọt" đã làm xói mòn lòng tin của quần chúng với Đảng, làm tan vỡ mối quan hệ máu thịt Đảng - dân.
Thực trạng này vô cùng nguy hại, không chỉ làm rạn nứt khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, làm giảm đi nguồn sức mạnh của Đảng, tính tiền phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà còn đe dọa sự tồn vong của một đảng cầm quyền. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhận thức rõ những nguy cơ thoái hóa biến chất trong nội bộ một đảng mácxít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ nêu những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chỉ rõ tên kẻ địch nội xâm nguy hiểm này, Người còn đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống lại nó. Đó là những yêu cầu bắt buộc, đó là sự nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng theo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh xây dựng đạo đức cách mạng gắn liền với chống chủ nghĩa cá nhân. Nhất quán trong việc tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên của Đảng trong mọi thời điểm cách mạng, hàm ý sâu xa của Người thể hiện rõ: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù chiến tranh hay hòa bình, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta xứng đáng là đại biểu của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc; để làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là những chiến sĩ cách mạng vừa tài vừa đức, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo thì nhất định phải tiêu diệt kẻ địch nội xâm, phải “bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật". Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng không thể vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân, nếu lòng dạ không còn trong sáng, nếu họ không "đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng”, tự mình cắt đứt mối liên hệ với quần chúng đặc biệt là không lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý kiến và tôn trọng quần chúng, "phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng”[14].
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng nguy cơ và tác hại của căn bệnh "cá nhân chủ nghĩa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Người cán bộ cách mạng sẽ không thể làm mực thước trước nhân dân, không thể được nhân dân tin yêu, quý trọng và càng không thể hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân với tinh thần "mình vì mọi người", "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", "chí công vô tư" nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, Người yêu cầu: Người cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt nó. Luôn lo lắng và quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, từ nỗi bận tâm và trăn trở của mình về nhiệm vụ trọng yếu này, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã để lại một tác phẩm bất hủ Đạo đức cách mạng. Đây không chỉ là lời nhắn gửi, là khát vọng của Người về việc rèn luyện đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, đó còn là thông điệp vĩnh hằng của Người, là lý luận của Người về xây dựng một Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thanh cao và giản dị, không có gì là của riêng. Gia đình của Người là nhân dân, là Đảng và Tổ quốc. Bởi lẽ đó, tất thảy điều gì Hồ Chí Minh dạy và làm, thì mọi người đều ngưỡng mộ và làm theo không chút đắn đo. Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, song tất cả những gì thuộc về Người hiển hiện từ cuộc đời Người vẫn còn sống mãi, những điều Người nói, những việc Người đã làm cùng tâm tư nguyện vọng của Người để lại trong tác phẩm Đạo đức cách mạng vẫn còn nguyên giá trị thời sự.
Hơn bao giờ hết, với mẫn cảm chính trị và tầm nhìn xa, những điều Người dự báo, nhắc nhở về những nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên về phẩm chất đạo đức, về lối sống, v.v. trong Đảng ở vào một hoàn cảnh cụ thể, một bối cảnh cụ thể năm xưa cùng những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân đe dọa sự sống còn của Đảng đã không chỉ dừng lại ở lý luận, đó đã là sự thật đau lòng, đang hiện hữu trong mọi mặt của đời sống xã hội hiện nay trên đất nước ta.
Từ mong muốn về một Đảng cách mạng phải bao gồm những người con ưu tú, tài đức vẹn toàn, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh xứng đáng là danh dự và lương tâm của dân tộc, tất yếu phải tránh được ba nguy cơ tiềm ẩn (sai lầm về đường lối; sa vào chủ nghĩa cá nhân; tự đánh mất mình và rời xa quần chúng). Nhất định phải xây dựng Đảng ta về trí tuệ và đạo đức, để Đảng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ lịch sử được giao phó. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ "có tinh thần cố gắng vươn lên", “chịu học tập để tiến bộ”, nâng cao trình độ về mọi mặt của mình để có thể sáng suốt quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng (về Cương lĩnh, đường lối, chính sách, v.v.), mà còn phải giữ vững lý tưởng cộng sản và đạo đức cách mạng của mình, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ít lòng tham muốn về vật chất, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, coi khinh sự xa hoa, chạy chức, chạy quyền, đời tư giản dị, trong sáng, v.v..
Quy luật của chiến tranh và quy luật xây dựng trong thời bình vốn hoàn toàn khác nhau. Trong chiến tranh, những khó khăn thử thách đã nhiều, trong thời bình và đặc biệt là thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, thử thách càng khắc nghiệt hơn. Những cạm bẫy đời thường, và đi liền cùng đó là tác động khôn lường của nền kinh tế thị trường càng làm cho những nguy cơ suy thoái biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng cận kề và nhân lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng, "thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều"[15], nên Người không ít lần cảnh báo, chỉ rõ sự nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân - kẻ địch không mang gươm súng nhưng lại có thể đánh gục ta từ bên trong. Và cũng từ những chỉ dẫn của Người, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng muốn không tụt hậu, muốn xứng đáng với vị trí tiền phong càng phải phấn đấu mãi, học mãi điều giản dị nhưng ý nghĩa lớn lao, đó là cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nên làm cách mạng để "suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân", chứ không phải làm "quan phụ mẫu của dân", không được việc gì cũng nghĩ đến lợi ích của riêng mình trước hết, và càng không thể độc đoán, chuyên quyền, mượn danh để trục lợi.
Cũng từ việc yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc, kiên quyết chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân vì chủ nghĩa cá nhân sẽ đẻ ra hàng trăm thứ vi trùng độc hại, những căn bệnh dễ mắc, dễ lây lan làm băng hoại sức mạnh và khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần nâng cao đạo đức cách mạng, yêu dân, kính trọng dân, không xa rời thực tế, không xa rời nhân dân... Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định: Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung hãn, rất nguy hiểm, Người còn coi nó là đồng minh của giặc ngoại xâm tiềm ẩn và phá ta từ bên trong nên nhấn mạnh: chừng nào còn những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa trong nội bộ Đảng, trong mỗi người cán bộ, đảng viên, chừng đó những người cách mạng không thể quy tụ được nhân dân, không thể lãnh đạo được nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn nhiều về đạo đức, Người còn gương mẫu thực hiện “quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”, đồng thời yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức cách mạng một cách nhất quán và thường xuyên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh, Đảng không chỉ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng bằng đường lối, chủ trương đúng, Đảng còn lãnh đạo cách mạng bằng sự mực thước và nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Vì vậy, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, hướng lòng mình đến chí công vô tư của mỗi người cán bộ, đảng viên của Đảng như Người từng nói, từng mẫu mực thực hiện chính là “một cách tốt nhất để xây dựng Đảng”, thiết thực làm cho Đảng xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc. Trong bất cứ thời điểm lịch sử nào, và ở bất cứ nơi đâu, chừng nào đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa thấm nhuần đạo đức cách mạng, chưa kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chừng đó họ không thể nêu gương trước nhân dân (đặc biệt đối với những người cách mạng phương Đông - nơi một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền).
Tựu trung lại, để cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, để Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy được sức mạnh nội lực của trí tuệ và đạo đức, ngày một trưởng thành và vững mạnh, từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Đạo đức cách mạng, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình một cách chân thành, triệt để. Đảng phải thực sự gần dân, hiểu tâm tư nguyện vọng của dân và củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Hơn bao giờ hết, công tác chính trị, tư tưởng trong Đảng phải luôn được bồi dưỡng thông qua các cuộc vận động, các đợt triển khai học tập. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh, sinh hoạt chi bộ phải đều đặn với nội dung thiết thực, có kiểm tra chặt chẽ, thưởng phạt rõ ràng. Phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những kẻ thoái hóa biến chất, ham hư danh, chạy chức, chạy quyền, tham ô, tham nhũng, đặc biệt là những cán bộ, đảng viên được trao trọng trách cao, có ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội. Đó là những công việc trọng yếu của công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một tấm gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh ngời sáng với lời căn dặn đầy tâm huyết: Đạo đức cách mạng không chỉ là tâm nguyện của Người đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, đó còn là một nhiệm vụ, một yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Hơn bao giờ hết, càng ôn lại những suy tư, những lời căn dặn của Người, chúng ta càng tự mình chiêm nghiệm về cuộc đời, tấm gương đạo đức của Người để thấm nhuần đạo đức cách mạng, thiết thực góp phần xây dựng Đảng và học được ở cuộc đời Người để làm người cách mạng và người dân tốt hơn. Đó là ý nghĩa to lớn của tác phẩm quan trọng này đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đang được triển khai sâu rộng trong thực tiễn.
55 năm đã trôi qua, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo đức cách mạng, song, những điều Người tâm huyết, những chỉ dẫn kịp thời của Người vẫn còn mãi với thời gian. Ôn lại, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người, chính là thấm nhuần sâu sắc lời Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[16].
PGS. TS. Phạm Ngọc Anh
Trích trong cuốn Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
qua tác phẩm Đạo đức cách mạng,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1-2014.


*****
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.600.
2, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.601, 602.
3, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602.
3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.604, 606.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.607.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.603.
6, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.605, 602.
7, 2, 3, 4, 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.607, 608, 608-609, 609, 608.
8, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.608, 610.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.610.
10, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
11, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.627.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.547.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.402.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.612.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân...

Tư tưởng của Bác Hồ về vai trò phụ nữ trong xã hội

Tư tưởng nhất quán xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ là nhằm mục đích cao nhất giải phóng con người và ra sức tranh đấu để đòi lại những quyền thiêng liêng của con người. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng cho họ. Những tư tưởng của Người về vấn đề giải phóng phụ nữ vẫn còn nguyên giá trị. ác Hồ tặng hoa cho 3 nữ dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh (24/9/1968) . (Nguồn ảnh:  www.baotanghochiminh.vn ) Trong tư tưởng của Người về phụ nữ được xuất phát từ tình cảm đặc biệt đối với những người phụ nữ nói chung và từ thực trạng bất bình đẳng của phụ nữ dưới chế độ phong kiến, sự cai trị thâm độc của thực dân Pháp đối với nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bác Hồ luôn đánh giá cao vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam và cho chúng ta thấy những nhà kinh điển của chủ n...

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu ...