Làm thư ký cho Bác đã hai mươi bốn năm, có bao giờ anh thấy
Bác tự cho mình là một "ông già" không? Và Bác đã làm gì để chống lại
tâm lý "ông già" ấy?
Hỏi chuyện đồng chí Vũ Kỳ
Võ Văn Trực thực hiện
Làm thư ký cho Bác đã hai mươi bốn năm, có bao giờ anh thấy
Bác tự cho mình là một "ông già" không? Và Bác đã làm gì để chống lại
tâm lý "ông già" ấy?
Như tất cả các cụ già Việt Nam, Bác cũng muốn có cái thú vui bình dị của tuổi già như Bác đã thể hiện trong thơ: Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau. Nhưng ở Bác, tôi không bao giờ thấy bộc lộ tâm lý mệt mỏi của một "ông già". Chắc đồng chí còn nhớ bài thơ của Bác:
Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm,
Vẫn vững hai vai việc nước nhà.
Kháng chiến dân ta đang thắng lớn,
Tiến bước, ta cùng con em ta!
Xuất xứ của bài thơ là thế này. Sáng 20 tháng 5 năm 1968, Bác
dậy sớm hơn để chuẩn bị 6 giờ 15 tới dự kỳ họp khai mạc của Quốc hội. Vào hội
trường, với tư thế trẻ trung và hóm hỉnh, Bác nói: Lần trước tôi có nói là những
thắng lợi của chiến sĩ và đồng bào hai miền làm cho tôi như trẻ lại 20 tuổi.
Nhưng nay nghe nói 78 tuổi, thì tôi thấy già đi. Vì vậy tôi có bài thơ này:
"Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm...". Cả hội trường sôi động hẳn lên.
Các đại biểu Quốc hội ai cũng cảm thấy cùng trẻ lại với Bác.
Từ khi bước chân vào hoạt động cách mạng cho đến lúc từ giã
cuộc đời, Bác luôn luôn quan tâm đến thế hệ trẻ. Năm 1925, Bác đã lo đào tạo
nhân tài trẻ bằng cách gửi Lê Hồng Phong, Trương Văn Lễnh sang học trường quân
sự Hoàng Phố, gửi Trần Phú và một số thanh niên khác sang học trường đại học
Phương Đông ở Mát-xcơ-va. Các cháu thiếu niên, nhi đồng, Bác cũng chú ý nhiều.
Đó là những cháu ở Trung Kỳ phải sống lưu lạc vì bố mẹ bị thực dân Pháp bắt bớ,
tù đày, được Bác đưa từ Phi Chít (Thái Lan) sang Quảng Châu để tổ chức thành
nhóm "Thiếu niên tiền phong Việt Nam". Năm 1926, Bác đưa một số cháu
sang học ở Liên Xô kèm theo bức thư gửi Uỷ ban Trung ương Đội Thiếu niên tiền
phong trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Lê-nin: "... Khi
chúng tôi nói cho các em nghe về Lênin, về các bạn, những học trò nhỏ Nga của
Lê-nin, các em rất thích và muốn đến nước các bạn để gặp các bạn, sống với các
bạn, học tập các bạn, và thật sự trở thành những học trò của Lê-nin như các bạn...
Chúng tôi hy vọng rằng các đồng chí không từ chối nhận ba hoặc bốn đồng chí nhỏ
tuổi Việt Nam chứ?" Thật là cảm động, Bác lo cho các cháu những điều rất
nhỏ, được viết trong lá thư: "... Vào tháng mấy thì ở Mát-xcơ-va bắt đầu lạnh
(vì các em thiếu niên này từ một nước nóng bức tới, phải chọn lúc thời tiết
thích hợp cho các em đi)... Đến Mát-xcơ-va, các em tới địa chỉ nào?..."
Khởi đầu lịch sử Đảng ta cũng là do lực lượng thanh niên được
Bác dìu dắt. Hồi đó, Bác đã tổ chức "Thanh niên cách mạng đồng chí hội"
và tự tay Bác soạn thảo cuốn "Đường kách mệnh" để giảng dạy.
Năm 1961, trong Đại hội lần thứ ba của Đoàn thanh niên Lao động
Việt Nam, Bác vui mừng nói: "Từ chỗ chỉ có một Lý Tự Trọng đến ngày nay
chúng ta có 78 vạn đoàn viên Đoàn thanh niên lao động hăng hái ra sức giúp Đảng
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Tiến bộ đó làm cho
Bác rất vui sướng và trẻ lại. Nó làm cho lòng Bác phơi phới như hoa nở trong
mùa xuân".
Theo anh, trong tất cả các tổ chức của tuổi trẻ, Bác chú ý đến
tổ chức nào nhất?
Tất cả các hình thức tổ chức để tập hợp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng nhằm phụng sự Tổ quốc, Bác đều chú ý, quan tâm giáo dục để tổ chức đó ngày càng vững mạnh. Trong đó tổ chức thanh niên xung phong được Bác đặc biệt quan tâm. Bài hát truyền thống của Thanh niên xung phong cũng là bài ca chính thức của Đoàn thanh niên bây giờ, được nhạc sĩ Hoàng Hà phổ nhạc bốn câu thơ của Bác:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên!
Trên đường đi chiến dịch Biên giới, ghé thăm một lán trại
thanh niên xung phong làm đường, Bác trò chuyện thân mật rồi hỏi "Các cháu
có thích nghe thơ không?". Tất cả đồng thanh: "Chúng cháu thích nghe
thơ ạ". Thế là Bác ứng khẩu đọc bốn câu thơ này. Ngay sau đó, nhiều thanh
niên xung phong và cả bộ đội Vệ quốc đoàn đều truyền cho nhau và học thuộc
trong chiến dịch Biên giới.
Về tổ chức thanh niên xung phong, Bác nói với tôi: "qúy
hồ tinh, bất quý hồ đa, lựa tuyển cẩn thận để thanh niên xung phong thật sự là
một trường đào tạo thanh niên bằng những công việc thiết thực". Bác trực
tiếp xem và sửa chữa bản điều lệ về nhiệm vụ và bổn phận của Đoàn thanh niên
xung phong.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác theo
dõi rất sát các hoạt động của thanh niên xung phong, kịp thời viết bài, nêu
gương những điển hình tốt và gửi thư khen các đơn vị thanh niên xung phong có
nhiều thành tích trong xây dựng và chiến đấu.
Tháng 5 - 1968, trong phần viết thêm vào Di chúc, có đoạn:
"Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng
và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành,
các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng
tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Như vậy, Bác xem tổ chức Thanh niên xung phong không chỉ để
làm những việc cụ thể như đắp đường, xây cầu, khai hoang..., mà còn là một trường
học để rèn luyện và đào tạo cán bộ tốt cho đất nước. Nếu không nhận thức đầy đủ
như vậy tức là chưa thấu hiểu được lời dạy của Bác đối với thanh niên xung
phong.
Là người được thường xuyên gần gũi Bác, chắc anh thấy rất rõ
sự quan tâm bồi dưỡng và giáo dục thế hệ trẻ được thể hiện trong công việc và
sinh hoạt thường ngày của Bác?
Một lần, Bác đi công tác xa hơn một tháng, lúc trở về, Bác lại
ngồi bên cầu ao vỗ tay gọi cá đến để cho ăn. Hôm ấy Bác không thấy con cá gáy
vây đỏ đến ăn. Bác hỏi tôi. Tôi không biết trả lời thế nào. Tối, tôi hỏi anh
em, được biết không ai câu cả. Khoảng mười ngày sau, ngồi bên Bác cho cá ăn,
Bác bảo: "Kìa, chú coi, con cá gáy vây đỏ miệng đỏ đã đến rồi đấy". Rồi
Bác nói thêm: "Các chú ở nhà chắc không cho cá ăn đều và đúng giờ cho nên
nó mới phải đi kiếm ăn lăng băng như thế". Bác hạ giọng như tự nói với
mình: "Đối với con người cũng thế, nhất là tuổi thanh niên, không quan tâm
giữ nếp sống tốt thì cũng như thế". Tôi nghe mà thấm thía sâu sắc làm sao!
7 giờ sáng ngày 27 tháng 5 năm ấy, tức là trước ngày Thiếu
nhi quốc tế 1-6, Bác gọi chị Thu Trà đến. Hồi đó chị Thu Trà làm chủ tịch Uỷ
ban thiếu niên - nhi đồng. Bác hỏi về tình hình một số cháu học sinh miền Nam
nghịch ngợm, Bác nói: ba má các cháu gửi các cháu ra miền Bắc để yên tâm công
tác với niềm tin là được dạy dỗ tốt. Tại sao có tình trạng này? Lỗi các cháu một
phần thì trách nhiệm của các cô các chú gấp mười phần... Bác căn dặn: vì các
cháu xa nhà, thiếu tình cảm gia đình, cho nên phân trách nhiệm cho một số gia
đình cán bộ chăm sóc các cháu như con em trong nhà. Bác cũng nhận chăm sóc con
của đồng chí Nguyễn Hữu Thọ một cháu trai, hai cháu gái.
Ngày 23 tháng 5 năm 1969, Bác tiếp ông Chủ tịch Thượng nghị
viện Chi-lê X. Agienđê, sau này là Tổng thống. Sau đó, Agienđê đã ghi lại những
ý nghĩ chân tình của mình trong một bài báo: "Chúng tôi ngồi quanh một cái
bàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở chiếc phong bì lấy ra một tấm ảnh và nói với chúng
tôi: "Đây là một kỷ niệm". Chủ tịch lần lượt giới thiệu với chúng tôi
những em thiếu nhi anh hùng miền Nam có nét mặt ngây thơ đang ngồi quây quần
quanh Chủ tịch trong tấm ảnh. Chủ tịch nói: "Tôi rất vui lòng về các cháu
thiếu nhi ngày nay... Hồi còn nhỏ, tôi không làm được những việc mà các cháu đã
làm. Thiếu nhi thời tôi cũng vậy". Sau đó, Chủ tịch mở một quyển vở cũ và
với giọng dịu hiền, Chủ tịch đọc những con số chỉ rõ những thanh niên, thiếu
nhi đã đạt được thành tích xuất sắc trong học tập, lao động và trong những việc
làm anh hùng. Con số này ngày một tăng, nói lên sự nỗ lực của thanh niên".
Agienđê kết luận: "Chưa bao giờ một người khi nói với chúng tôi về các em
nhỏ lại giáo dục chúng tôi nhiều như vậy".
Sự quan tâm và niềm tin của Bác Hồ đối với các thế hệ trẻ,
người chủ của tương lai, một phần quan trọng đã được thể nghiệm trong chính thời
thanh niên của Bác. Với hai bàn tay trắng, chàng trai xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành
21 tuổi đã quyết tâm đi khắp năm châu bốn biển, tự kiếm sống, tự học tập để tìm
đường cứu nước. Quyết tâm ấy, niềm tin ấy, Bác dồn tất cả cho các thế hệ trẻ,
mùa xuân của xã hội.
Tạp chí Tia sáng, số 5/2000
Nguồn: http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-chi-minh/cuoc-doi-va-su-nghiep/doc-0922201511023246.html
Nhận xét
Đăng nhận xét