KHẢO
CỨU LẠI VỀ HỒ CHÍ MINH
· TSUBOI YOSHIHARU
Hồ Chí Minh với tư cách là một người theo chủ nghĩa Cộng hòa
Trong bài viết này, chúng ta thử thoát khỏi những quan niệm về
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
cách đánh giá Ông Hồ như một người cộng sản Marx-Lenin, lần theo
những nẻo đường trong cuộc đời Hồ Chí Minh để khảo cứu lại tư tưởng của
Ông trên một lập trường giá trị tự do hơn.
Từ khi bắt đầu nghiên cứu Việt Nam năm 1973, mỗi lần có cơ
hội, tôi lại cố gắng lần theo những dấu vết cuộc hành trình của Hồ Chí
Minh. Bắt đầu từ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - quê hương của
Hồ Chí Minh, tôi lần theo dấu chân Ông ở Nhà kỉ niệm Hồ Chí Minh ở
Vinh - thủ phủ của tỉnh Nghệ An; phòng làm việc, Bảo tàng và Lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh ở Thủ đô Hà Nội; Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Thành phố Hồ Chí Minh;
trường Quốc học Huế, v.v... Ở Trung Quốc, tôi đã đến thăm Hồng Kông, Quảng
Đông, Thượng Hải, Diên An, v.v... Tôi cũng tìm đến ngôi nhà Hồ Chí Minh
từng sống ở Moscow. Tôi đã đứng trong ngôi nhà ở phố Compoint,
được coi là nơi hoạt động của Hồ Chí Minh ở Paris. Ở London, tôi đã
tới thăm khách sạn nơi Ông từng làm đầu bếp dưới sự hướng dẫn
của Escoffier. Ở New York, tôi đã thử hình dung Hồ Chí Minh đã ngắm nhìn
bức tượng Nữ thần tự do từ góc độ nào. Tôi cũng có dịp thảo luận với các
nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh người Pháp như Brocheux, G.Boudarel ... Đương
nhiên, tôi cũng có dịp trao đổi ý kiến với những nhà trí thức, học giả
người Việt như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đình Đầu, Phan Huy
Lê, Vũ Minh Giang, Nguyên Ngọc, v.v... Trong quá trình đó, tôi luôn cảm
thấy dường như chưa có ai đoán đúng được tư tưởng "bè trầm liên tục"
của Hồ Chí Minh.
Cho đến gần đây, tôi nhận ra rằng có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi
trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những giá trị của nền Cộng hòa.
Tôi cho rằng nếu nhận thức Hồ Chí Minh như một người theo chủ nghĩa Cộng
hòa, chúng ta có thể đánh giá được một cách đầy đủ và đúng đắn nhất những
tư tưởng và hành động của Ông.
Không ai phủ nhận việc Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc. Mục tiêu
tối thượng của Ông là giải phóng dân tộc và giành lại nền độc lập cho Tổ
quốc từ tay thực dân Pháp. Để thực hiện công cuộc đó, cơ sở lý luận của
Ông là "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" - những biểu tượng của
nền Cộng hòa.
Khi đặt chân đến nước Pháp, đất nước đã biến Việt Nam thành thuộc
địa, Ông phát hiện ra rằng tầng lớp lao động nghèo khổ ở Pháp cũng ở trong tình
cảnh bi thảm như các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Đồng thời, Ông cũng
ngạc nhiên trước tinh thần Cộng hòa đối xử bình đẳng với con người bất kể
sự khác biệt về màu da, ngôn ngữ, văn hóa. Có một câu chuyện nổi
tiếng liên quan đến vấn đề này. Sau chuyến hải hành dài bắt đầu từ Sài
Gòn, cuối cùng Hồ Chí Minh cũng đến được Marseille. Đây là lần đầu tiên
Ông Hồ đặt chân lên nước Pháp. Ông vào một quán cà phê và gọi một tách cà
phê. Người hầu bàn đáp lại: "Vâng, thưa Ông" (Oui, Monsieur).
Khi còn ở Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, Hồ Chí Minh chưa bao
giờ được gọi bằng từ "Mousieur".
Đối với chàng thanh niên Hồ Chí Minh khi đó mới 21 tuổi, được một
người Pháp gọi là "Mousieur" là một sự ngạc nhiên thú vị.
Có lẽ khi đó người hầu bàn cũng không nghĩ rằng vị khách của mình là
một người Việt Nam đến từ xứ thuộc địa, hoặc cũng có thể anh ta không quan
tâm tới quốc tịch của vị khách. Câu nói của người hầu bàn chỉ là một câu
nói "đương nhiên" thường dùng để xác nhận với khách hàng. Nó được anh
ta sử dụng như một cái máy chứ không có ý kính trọng gì đặc biệt ở đây.
Thế nhưng, đối với Hồ Chí Minh, một người vốn đã quen chứng kiến quang
cảnh phân biệt đối xử ở xứ thuộc địa, câu trả lời "đương nhiên"
đó lại là một hiện tượng thật ngạc nhiên và mới mẻ.
Tinh thần nền Cộng hòa Pháp
Tinh thần nền Cộng hòa Pháp mang tính lý tưởng cao. Qua Cách mạng
Pháp, một quan điểm mới về giá trị con người khác hẳn với giai đoạn trước
đã được xác lập.
Như đã thể hiện trong câu nói của bản Tuyên ngôn Nhân quyền:
"Người ta sinh ra tự do và bình đẳng", sự khác biệt căn bản nhất
của thời Cận đại so với các thời đại khác là sự thay đổi 180 độ quan điểm
về giá trị con người. Tinh thần nền Cộng hòa chính là cuộc vận động nhằm
tạo nên và lý tưởng hóa hình tượng con người mới, thúc đẩy mỗi cá nhân
tiếp cận với hình tượng lý tưởng đó.
Đó là cách nhận thức con người bằng việc bài trừ những thuộc tính
cá nhân. Lấy ví dụ, nó không quan tâm tới người đó là người Nhật hay người
Việt Nam, sinh ra ở tỉnh nào, xuất thân trong gia đình hay dòng họ nào,
bao nhiêu tuổi, là nam hay nữ. Vấn đề quan trọng là con người đó với tư
cách là một "cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính
hay không. Nền Cộng hòa được xây dựng bởi những cá nhân là nhân dân
Pháp, bất kể giai cấp, màu da hay người đó có sinh ra ở Pháp hay không. Do
vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của nền Cộng hòa là phải giáo dục ra được
những "cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính.
Tuy nhiên, không dễ dàng hiện thực hóa được những lý tưởng đó của
tinh thần Cộng hòa. Đã có rất nhiều hành động nhằm kéo xã hội quay về với
tư tưởng cũ. Để xác lập được tinh thần Cộng hòa, nước Pháp cần phải đợi
đến thời kỳ nền Đệ tam Cộng hòa, khoảng 100 năm sau Cách mạng Pháp.
Ở nước Pháp khi đó cũng như ngày nay, nông dân luôn đóng vai trò trung
tâm. Họ có tư tưởng cực kỳ bảo thủ. Ở người nông dân, tình cảm thích nhà
vua, coi trọng gia đình, truyền thống và dòng dõi là hết sức mạnh mẽ.
Trong số họ có rất nhiều người vừa hiếu kỳ đối với những người khác, đồng
thời lại có những suy nghĩ mang tính phân biệt chủng tộc, cho rằng người
da trắng ưu việt hơn so với các chủng tộc khác. Cách mạng Pháp đã thay đổi
tư tưởng bảo thủ của nông dân thành những "cá nhân" theo giá trị
con người kiểu Cận đại, quá trình biến đổi đó kéo dài 100 năm. Ngay trong
thời đại hiện nay, dù có quá nửa người Pháp tán thành tinh thần Cộng
hòa, nhưng rõ ràng cũng có không ít người vẫn duy trì thể tạng cũ của nông
dân. Nói một cách chính xác hơn, vẫn còn rất nhiều người vẫn mang trong
mình mâu thuẫn giữa một bên là con người được giáo dục để mang tinh thần
Cộng hòa một cách tự giác, với một bên là quan điểm bảo thủ về giá trị con
người vốn được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình thủ cựu. Về mặt này,
có thể nói người Pháp vẫn mang đầy mâu thuẫn, và tinh thần Cộng hòa vẫn
đang tiếp tục bị thử thách ở nước Pháp. Trong khi đó, người Việt Nam lại
hoàn toàn ngược lại. Người Việt Nam trước tiên coi trọng thuộc tính. Mỗi
khi đến Việt Nam, tôi thường rất lúng túng khi bị người Việt Nam đặt những
câu hỏi liên quan đến cá nhân như bao nhiêu tuổi, làm việc cho công ty
nào, ở vị trí gì, xuất thân từ trường đại học nào, vùng nào, tầng lớp nào, gia
đình như thế nào. Hay những câu hỏi đại loại như "Đã kết hôn
chưa?", "Đã có con chưa, nếu có con thì được mấy con rồi?",
"Con mấy tuổi"... Tại sao người Việt Nam lại chấp nhặt những
thông tin cá nhân và hoàn cảnh gia đình như vậy. Đó là vì: thông qua những câu hỏi
đó, người Việt muốn làm rõ vị trí của đối phương, dựa vào đó xác định rõ ràng
mối quan hệ xã hội trên dưới giữa mình và đối phương. Từ đó, quan hệ đó sẽ
được phản ánh qua cách dùng từ và động tác ứng xử, qua việc sử dụng cách
nói kính trọng hay khiêm tốn, có nên chào hỏi và bắt tay như đối với người
lớn hơn hay không. Để xây dựng được quan hệ tốt đẹp cho hai bên và ứng xử
đúng với những qui tắc xã hội vô hình, trước tiên người Việt phải tìm hiểu
những thuộc tính của đối phương. Đây không chỉ là truyền thống của riêng
Việt Nam mà là truyền thống của cả khu vực theo văn hóa Nho giáo, tương
ứng với thế giới Đông Á bao gồm cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, những
nơi cũng lấy "quan hệ" giữa con người với con người làm qui
tắc chuẩn cho hành động.
Ở Đông Á, nơi thuộc tính cá nhân và quan hệ con người đóng vai trò
chủ đạo, người ta đã không lý giải được hết được tinh thần nền Cộng hòa.
Người ta thường viện dẫn những ví dụ của nước Pháp và nước Mỹ để đưa ra
những định nghĩa mang tính mô phạm về nền Cộng hòa, kiểu như nền Cộng hòa
là việc chặt đầu nhà vua, phế bỏ chế độ quân chủ, xây dựng thể chế chính
trị "của dân, do dân, vì dân"; nền Cộng hòa là thể chế chính trị
mà nhân dân đóng vai trò chính,... Ngƣời ta đã không đạt tới được nhận thức
rằng: điều kiện tiền đề của nền Cộng hòa là những "cá nhân" theo quan
điểm giá trị mới về con người.
Nhận thức về tinh thần nền Cộng hòa của Hồ Chí Minh
Người viết cho rằng có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy
nhất ở Đông Á nhận thức được một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hòa
và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Tôi muốn lần theo những hành
động của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian 10 năm Ông phát huy đƣợc năng
lực lãnh đạo của mình nhất, tức là quãng thời thời gian từ lúc về nước năm
1941 sau ba chục năm bôn ba ở hải ngoại đến những năm 1950, để chứng minh
cho giả thuyết nêu trên.
Trước tiên, tôi cho rằng cần phải khảo cứu lại vấn đề tại sao Hồ
Chí Minh lại "phát hiện" ra Lênin và trở thành một người Cộng sản. Để
định nghĩa lại Hồ Chí Minh từ một người cộng sản Marx-Lênin thành một
người theo chủ nghĩa Cộng hòa, cần phải làm rõ mối quan hệ này.
Hồ Chí Minh biết đến Lênin nhờ đọc bài viết đƣợc công bố của Lênin
về vấn đề thuộc địa. Ông đã bị thu hút mạnh mẽ bởi mối quan tâm sâu sắc
cũng như cách đưa ra những phương pháp giải quyết cụ thể đối với vấn đề
thuộc địa của Lênin. Ông Hồ cho rằng để giải phóng thuộc địa, chỉ có con
đường duy nhất là Đảng Cộng sản, do vậy Ông đã từ bỏ Đảng Xã hội và trở
thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau đó, Ông
sang Moscow, trở thành một thành viên của Quốc tế cộng sản và hoạt động
năng nổ. Kể từ lúc đó, trong quá trình hoạt động của mình, Ông học được
rằng: để giành được độc lập cho Việt Nam từ tay nhà nước Pháp, một
trong những liệt cường của Tây Âu có lực lượng quân sự và chính trị khổng
lồ, cần phải có một tổ chức đoàn kết chặt chẽ đóng vai trò trung tâm cho
công cuộc giải phóng, cũng như cần hoạt động liên kết quốc tế nhằm nhận
đƣợc sự đồng cảm rộng rãi từ quốc tế. Ông đồng tình với đề xướng của Lênin
về Bôn-sê-vich, Đảng Cộng sản-một đảng tiên phong có kỷ luật sắt. Về điểm
này, đúng là Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Lênin. Tuy nhiên,
ngoài mặt tổ chức ra, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề cần ưu tiên nhất là đấu
tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho Việt Nam chứ không phải là
vấn đề giai cấp. Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản
"chính thống" theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Đối với những
người cộng sản "chính thống", việc Hồ Chí Minh coi trọng
giải phóng dân tộc, coi nhẹ đấu tranh giai cấp là hành động xa rời Chủ
nghĩa Cộng sản, do đó, Ông Hồ đã bị phê phán một cách gay gắt. Vào những
năm 1930, Hồ Chí Minh đã bị những người cộng sản Việt Nam trẻ tuổi như Lê
Hồng Phong, Hà Huy Tập phê phán một cách gay gắt và công khai. Furuta
Motoo, tham khảo nghiên cứu của Kurihara Hirohide. đã trích dẫn một
phần lá thư của Ủy ban hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế
Cộng sản như sau:
"Ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã triển khai một cuộc
đấu tranh công khai với đường lối của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội - đường lối là tàn dư kết hợp giữa
chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cải lương duy tâm. Tàn dư này hết sức nặng
nề và đang trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng
sản. Cần thiết phải đấu tranh không thương tiếc với chủ nghĩa cơ hội và lý
luận kiểu cũ của Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Chúng
tôi đề xuất đồng chí Lin (Bút danh lúc đó của Nguyễn Ái Quốc -
Tsuboi) phải viết bản tự kiểm điểm bản thân."
Trước những phê phán này, Ông Hồ đã phải thay đổi đôi chút lập
trường của mình và phải rất vất vả để giữ được vị trí của mình trong Quốc
tế Cộng sản. Tuy nhiên, Ông đã bị gạt ra ngoài hoạt động lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương và bị buộc phải sang Moscow học tập. Nhưng cũng nhờ đó
mà Ông Hồ đã thoát nạn. Dưới sự đàn áp khốc liệt của nhà đương cục thực
dân, nhiều người Cộng sản hoặc bị chết hoặc bị xử tử. Lê Hồng Phong bị bắt
tháng 6 năm 1938 và sau đó qua đời trong tù vào khoảng tháng 9 năm 1942.
Hà Huy Tập bị bắt tháng 7 năm 1938, sau đó đƣợc thả ra một thời gian rồi
bị bắt lại năm 1940 và bị xử tử vào tháng 8 năm 1941. Khi Ông Hồ trở về
nước vào năm 1941, ở Việt Nam hầu như không còn một người Cộng sản
"chính thống" nào.
Nhờ vậy, trong quãng thời gian 10 năm tính từ khi trở về nước năm
1941, Ông Hồ, dựa vào sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản cũng như tiếng tăm
của mình, đã có thể hành động một cách tự do hơn theo những suy nghĩ của
mình.
Có một giai thoại thể hiện rất rõ hình ảnh Hồ Chí Minh là một
người theo chủ nghĩa Cộng hòa. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước sau 30 năm
bôn ba ở hải ngoại, chủ trì Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, xác định cách mạng là Cách mạng giải phóng dân
tộc, công bố ý tưởng thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng
thời thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên thường gọi là "Việt
Minh"). Tên gọi Việt Minh cho thấy mục tiêu của cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ là đánh đổ ách thống trị của Nhật và Pháp, giành lại độc lập, tập
trung toàn lực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh nêu lên chủ trương của Việt Nam Độc lập Đồng minh là
"liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo,
xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để
đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho "xứ sở". Mục tiêu của
Việt Nam Độc lập Đồng minh là "sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp,
Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc."
Tuyên ngôn Độc lập
Tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được cho là do Hồ Chí Minh đặt.
Nội dung của nó được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập tháng 9 năm 1945 và
Hiến pháp năm 1946. Câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập có đề cập đến
Hiến pháp Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp. "Tất cả mọi
ngƣời đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc
lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Tuyên ngôn Nhân quyền được viết trong Cách mạng Pháp năm 1791 đã
trình bày nội dung tương tự như sau: "Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi".
"Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn
80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến
cƣớp đất nƣớc ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn
với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân
dân ta một chúttự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng
lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước
nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn
trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của
ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng
buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu
cồn để làm cho nòi giống ta suy nhƣợc. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta
đến xƣơng tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác,
tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc
quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế
vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng
không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một
cách vô cùng tàn nhẫn". (Lược một đoạn - Tsuboi)
"Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt
Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với
Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất
cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, trên
dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp"
(trích ―Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945").
Còn có một câu chuyện nữa về Hồ Chí Minh ít được biết đến. Sau khi
thành lập Việt Minh năm 1941, để kêu gọi sự ủng hộ của các nước Đồng minh
trong đó có cả Trung Quốc, Ông Hồ đã quay trở lại Trung Quốc. Tuy nhiên,
do Việt Minh nằm dưới cái bóng của Chủ nghĩa Cộng sản nên Ông Hồ đã bị
Quốc dân đảng nghi ngờ. Ông bị chính quyền địa phương của Quốc dân đảng
bắt và bị giam từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. Sau cùng, Quốc
dân đảng nhận định rằng Việt Minh là thế lực chính trị chống Nhật trong
phạm vi Việt Nam nên Ông Hồ đã được thả. Tháng 8 năm 1944, khi được tự do
và chuẩn bị về nước, Hồ Chí Minh đã nói với tướng Trương Phát Khuê của
Quốc dân đảng như sau: "Tuy tôi là một ngƣời cộng sản nhưng bây giờ
vấn đề mà tôi quan tâm không phải là chủ nghĩa cộng sản mà là độc lập tự
do của Việt Nam. Tôi xin hứa với anh 1 lời hứa đặc biệt: trong vòng 50 năm
tới sẽ không thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam". (trích theo
Furuta Motoo).
Cách mạng Tháng Tám
Tuy nhiên, không thể có được Con người mới gánh vác độc lập tự do
chỉ bằng đấu tranh giải phóng đơn thuần. Hồ Chí Minh biết rõ rằng, để đạt
được điều đó cần một cuộc cách mạng làm đòn bẩy. Cuộc cách mạng đó ở Việt
Nam là "Cách mạng Tháng Tá". Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản
đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh, nước Pháp bảo hộ thì chưa khôi phục
được thế lực của mình. Cách mạng Tháng Tám là cuộc khởi nghĩa trên toàn
quốc do Việt Minh tổ chức nhân cơ hội đó nhằm giành quyền tự chủ thực sự
cho Việt Nam. Nhận được tin Nhật đầu hàng, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8
năm 1945, Đảng Cộng sản đã tổ chức Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào, ra quyết
định khởi nghĩa. Ngày 16-17 tháng 8, Việt Minh tổ chức Đại hội Quốc dân,
quyết định thành lập Chính phủ lâm thời nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau đó, bắt đầu từ việc giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8, Việt
Minh đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở các thành thị khác, xác lập được
quyền làm chủ đất nước.
Kết quả của quá trình này là sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc
lập. Có nhà nghiên cứu cho rằng Cách mạng Tháng Tám không đơn thuần
là một cuộc đảo chính bằng vũ lực. Đúng là khi cách mạng nổ ra, quân Nhật,
lúc đó đã đầu hàng Đồng minh, đã không tiến hành đàn áp cuộc khởi nghĩa
của Việt Minh. Đồng thời ở Việt Nam cũng không có mặt quân Pháp và
quân Đồng minh. Nhờ vậy, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra một cách tương
đối dễ dàng và không phải đổ nhiều máu. Đối với Hồ Chí Minh, cuộc cách
mạng này chính là quá trình giành lại quyền lực của nhân dân dựa trên khát
khao mạnh mẽ về tự do của họ, nó chính là quá trình xây dựng nên Con
người mới.
Ý nghĩa của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ước mơ "Độc lập" từ lâu của Hồ Chí Minh là Việt Nam được
giải phóng khỏi tay Thực dân Pháp và trở thành một nước độc lập. Nhưng Độc
lập của Hồ Chí Minh không phải là khái niệm "độc lập" theo nghĩa cũ,
vốn thường được lặp đi lặp lại trong sách giáo khoa - là quá trình
Việt Nam giữ vững được độc lập và bản sắc (identity) của mình trước
sự uy hiếp của Trung Quốc. Việt Nam có lịch sử khởi nghĩa, đánh
bại, đánh đuổi sự xâm lược của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh của
Trung Quốc, nhưng sau mỗi lần đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam
lại chỉ xây dựng một thể chế chính trị mô phỏng Trung Quốc. Nhưng
"Độc lập" mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là một nước độc lập, một
nhà nước chủ quyền theo kiểu Cận đại. Từ "Độc lập" của Ông bao
hàm ý nghĩa xây dựng một quốc gia chủ quyền có lực lượng sánh vai được với
các cường quốc trên thế giới. Ý tưởng của Ông là không chỉ xây dựng
một chế độ Dân chủ Cộng hòa mà còn xây dựng nên hình ảnh những Con người
mới đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập.
"Tự do" của Hồ Chí Minh rõ ràng chịu ảnh hưởng từ
chữ "Tự do" trong khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái"
của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu Tự do của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tự do
của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là đất nước được độc lập, nhà nước có
chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động trên trường quốc tế, mà
phải là thứ tự do được từng người dân ca ngợi. Nó cũng yêu cầu mỗi
người dân ca ngợi quyền tự do đó phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên
trật tự của nền Cộng hòa, yêu cầu từng cá nhân phải có khả năng suy nghĩ,
quyết định với tinh thần trách nhiệm cao. Nhà nước kiểu Cận đại chính là
nhà nước xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo ra được những con người
như vậy, đồng thời có những thiết chế chính trị đi kèm đảm bảo cho
việc giáo dục đó. Nước Cộng hòa của Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa dân chủ kết
hợp với Tự do.
Cuối cùng như được đề cập trong bản Tuyên ngôn độc lập, "Hạnh
phúc" của Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của "quyền mưu cầu hạnh
phúc" trong Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hiến pháp Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ chính là bản Hiến pháp đầu tiên viết rõ ràng về
"quyền mưu cầu hạnh phúc". Hạnh phúc là một từ có tính
đa nghĩa, nhƣng ý nghĩa từng cá nhân có quyền mưu cầu hạnh phúc là một
khái niệm hết sức mới mẻ của thời kỳ Cận đại. Lịch sử Việt Nam là lịch sử
tranh sáng tranh tối của những cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của
Trung Quốc, đấu tranh chống lại những thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn
hán. Con người Việt Nam coi những nguy cơ đó là "bất hạnh", đặc
điểm của Việt Nam là có lịch sử chiến đấu và chiến thắng những "bất
hạnh" đó. Nếu coi những "bất hạnh" mà dân tộc Việt Nam phải chịu
đựng là những thử thách của ông Trời mang lại để dân tộc Việt Nam phải
vượt qua thì quả thực, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng và quả
cảm. Thế nhưng, quá trình đó bản chất là một quá trình mang tính thụ động.
Thông điệp về hạnh phúc của Hồ Chí Minh là thông điệp mỗi người đều có
quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động, tích cực tranh đấu để giành được
hạnh phúc đó.
Trong bản Hiến pháp làm cơ sở cho nhà nước, Hồ Chí Minh đã tham
khảo nước Cộng hòa Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và nêu lên ý tưởng về
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Con người Hồ Chí Minh được phản ánh
sắc nét trong Hiến pháp là một người theo Chủ nghĩa Cộng hòa và chủ nghĩa
hòa bình hơn là một người theo Chủ nghĩa Cộng sản. Hồ Chí Minh đã đọc
Tuyên ngôn Độc lập cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9
năm 1945. Trong vòng xoáy tương quan lực lượng quốc tế mà Việt Nam bị lôi
vào, Liên Hiệp quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để các nước công nhận
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã có một hành động mạo
hiểm là xóa đi hình ảnh người cộng sản của mình. Tháng 11 năm 1945, Ông
Hồ đã ra quyết định dứt khoát giải tán Đảng Cộng sản. Đương nhiên, trên
thực tế, tổ chức của Đảng vẫn được giữ nguyên, do đó cũng có thể coi nó
như một "hành động ngụy trang". Thế nhưng, để được các nước công
nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Hồ đã lựa chọn con đường ưu
tiên "quyền lợi dân tộc" lên trên "quyền lợi đảng
phái". Về điểm này, chúng ta có thể nhìn thấy một phần cách suy nghĩ theo
chủ nghĩa Cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Người Việt Nam có hiểu Hồ Chí Minh không?
Ở đây có một vấn đề là những người Việt Nam khác có hiểu được
nguyên lý về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Hồ Chí Minh đã trình
bày cũng như tinh thần nền Cộng hòa được đúc kết trong khẩu hiệu "Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc" của Ông hay không? Thật tiếc
phải nói rằng thông điệp của Hồ Chí Minh hầu như không được truyền bá và
lý giải một cách đầy đủ và đúng đắn. Người ta đã coi Ông như một người lãnh đạo
của phong trào Cộng sản quốc tế, một người theo chủ nghĩa Marx-Lênin.
Đó là vì sau Chiến tranh Thế giới II, thế giới rơi vào cục diện Chiến
tranh Lạnh, Việt Nam đã bị đặt vào tiền tuyến xung đột của Chiến tranh
Lạnh Đông - Tây. Trong bối cảnh quốc tế đó, Hồ Chí Minh sau khi
thành lập nước đã phải nhận sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô, trở thành
lãnh tụ lãnh đạo một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp và Mỹ. Ai cũng
lấy ý thức hệ làm chủ thể để lý giải Ông Hồ, và ngay bản thân Ông Hồ, để
nhận được viện trợ tiếp tục công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
mình, không có một sự lựa chọn nào khác ngoài việc phát ngôn và hành động
như một thành viên của liên minh những ngƣời cộng sản.
Thế hệ kém Ông Hồ 10 tuổi như Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay ông
Trần Văn Giàu, do chịu sự giám thị gay gắt của nhà đương cục thực dân, đã
phải hoạt động tại nước ngoài một thời gian. Chính vì vậy, họ đã hiểu được
tình hình bên ngoài và lý giải được một phần tinh thần nền Cộng hòa của Hồ
Chí Minh. Sự lý giải của họ là nhờ vào kinh nghiệm sống ở các nước Âu Mỹ,
chủ yếu là nước Pháp.
Tuy nhiên đối với những thế hệ trẻ hơn, do phải tiến hành
cách mạng và chiến tranh trên đất Việt Nam, nên hầu như không có mấy người
có kinh nghiệm sống ở nước ngoài. Do đó, họ thiếu đi nền tảng tư tưởng để
có thể lý giải được đầy đủ "Tinh thần nền Cộng hòa" mà Hồ Chí
Minh đã đúc kết được sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại. Càng đến những thế hệ
trẻ hơn, người ta càng có xu hướng lý giải Hồ Chí Minh chỉ theo góc độ là
nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản. Cùng với việc thần tượng hóa Hồ Chí Minh,
người ta đang đánh mất đi khả năng lý giải nội tại Hồ Chí Minh với tư cách
là một CON NGƯỜI bình thường./.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Việt Nam học lần thứ III. Tậpi. NXB Đại
học Quốc gia HN. Hà nội,2008
Nhận xét
Đăng nhận xét