Chuyển đến nội dung chính

Bác Hồ dặn: Nước không được chia!

1/ Năm 1968, một người lính của đại đội 4, tiểu đoàn 2 Nghệ An đỏ thuộc trung đoàn 27 Xô-Viết Nghệ Tĩnh ( Nay là trung đoàn 27 - Triệu Hải), trong cùng một trận đánh tại bắc đường số 9, Quảng Trị đã dùng khẩu B41, lần lượt bắn tiêu diệt 6 xe tăng địch, trở thành dũng sỹ diệt tăng nổi tiếng mặt trận B5. Người lính đó là trung đội phó Lê Nhật Tụng.


Và với chiến công đặc biệt xuất sắc đó, tháng 5/1969, Lê Nhật Tụng được vinh dự đại diện cho các chiến sĩ quân giải phóng đường 9 Quảng Trị, tham gia cùng đoàn đại biểu dũng sĩ quân giải phóng Miền Nam ra Hà Nội dự đại hội chiến sĩ thi đua, và cũng trong dịp này, Lê Nhật Tụng đã có được niềm hạnh phúc tột cùng khi được tham gia đoàn đại biểu dũng sĩ quân giải phóng miền Nam thăm, chúc thọ Bác Hồ. Để rồi, ngày trở lại đơn vị, trong hành trang của mình, ngoài chiếc huy hiệu Bác Hồ do chính người tự tay trao, gắn trên ngực trái của Lê Nhật Tụng, cùng tấm ảnh Lê Nhật Tụng đang cùng các dũng sĩ miền Nam quây quần bên Bác, còn có nguyên những câu chuyện cảm động về Bác Hồ được Lê Nhật Tụng kể lại cho các đồng đội chúng tôi, thực sự trở thành niềm tự hào và là bài học sâu sắc đã trực tiếp trở thành động lực tác động đến ý chí, nhân cách những người lính trung đoàn 27 Xô-Viết Nghệ Tĩnh, giúp chúng tôi vượt qua những cam go, thử thách, những hi sinh xương máu trong suốt chặng dài chiến tranh giải phóng tại chiến trường Bắc Quảng Trị - tuyến đầu và là nơi thử lửa của những người lính giải phóng…

Và một trong những câu chuyện cảm động được kể đi kể lại nhiều lần xen giữa mưa bom bão lửa đó là câu chuyện và là bài học về ý chí chiến đấu vì độc lập tự do của Bác Hồ được Lê Nhật Tụng truyền kể.

Hôm đó, mặc dù tuổi Bác đã cao, sức khoẻ Bác không được tốt như trước, nhưng Bác Hồ vẫn dành cả một khoảng thời gian khá dài để tiếp và thăm hỏi các cháu nam nữ dũng sĩ miền Nam. Trên bàn tiếp khách được bày sẵn những đĩa kẹo, bánh, trái cây. Và mặc dù Bác liên tục nhắc mọi người ăn kẹo, uống nước, nhưng trong một không khí ấm áp tình cha con, bác cháu quây quần bên nhau, nên cả đoàn như quên hẳn các đĩa kẹo, bánh, nước trà trên bàn. Cứ vậy, sau những lời thăm hỏi, động viên và tự tay mình gắn Huy hiệu của Bác cho từng người, Bác Hồ chia tay với đoàn. Nhưng ra đến cửa, Bác sực dừng bước, ngoảnh về phía dãy bàn còn nguyên các đĩa kẹo bánh, và bình nước trà rồi dặn:

- Kẹo bánh của nhân dân cho đó, các cháu ăn không hết thì chia nhau mang về. Và bất ngờ Bác nhấn mạnh từng lời - còn nước thì nhất định không được chia!

Lời dặn thật bất ngờ, và càng không ai ngờ, đó là lần cuối cùng những người lính giải phóng, những người con dân đất Việt có mặt hôm đó trong lễ mừng thọ lần cuối cùng của Người được nghe trực tiếp lời Người dặn dò:

-Nước thì nhất định không được chia!

Vâng, đó chính là lời dặn, và cũng khát vọng thống nhất đất nước mà vị cha già dân tộc đau đáu suốt cả cuộc đời, thực sự là bài học về ý chí chiến đấu, hi sinh vì “độc lập tự do”, trở thành hành trang cho mỗi người lính chúng tôi đi tiếp suốt chiều dài chiến tranh, tiếp tục thực hiện ý chí, lời thề và là khát vọng thiêng liêng của mỗi con dân đất Việt: Vì độc lập tự do, vì sự nghiệp thống nhất đất nước - Nhất quyết nước không được chia

2/ Đêm 3/9/1969. Trên đường vượt dốc cao điểm 405 để chuẩn bị cho trận đánh tới, chúng tôi nhận được hung tin Bác Hồ qua đời. Mệnh lệnh của đơn vị gấp rút trở về hậu cứ chịu tang Bác. Sững người như chết lặng giữa sườn núi, bất chợt trong tôi một nỗi tiếc nuối khôn nguôi. Vậy là vĩnh viễn tôi không còn có cơ hội thực hiện mơ ước một lần được gặp và mừng thọ Bác Hồ như người đồng đội tôi đã từng. Ngước về hướng thác nước đổ về đầu suối Cù Đinh, những câu chữ như theo bóng hình Bác bỗng đổ về thành lời:

Chông chênh dừng nghỉ lưng sườn dốc
Đêm về gió núi lạnh tái tê
Vẳng nghe suối đổ như triều dậy
Vẫn ấm lòng con, bóng Bác về


Vâng, lúc đó và mãi sau này, dẫu chúng tôi đã vĩnh viễn không bao giờ có cơ may được gặp Bác như người đồng đội của chúng tôi. Nhưng trong suốt chặng dài của hành trình chiến tranh giải phóng, trong một chuỗi những câu chuyện cảm động, sâu sắc và cũng là bài học về ý chí chiến đấu, về khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của Bác Hồ, cho đến bây giờ trong cuộc đối đầu với mọi cám giỗ thời bình, với những mưu đồ chiến tranh diễn biến hoà bình của kẻ thù, bài học đó vẫn còn nguyên giá trị. Và mãi mãi, Bác Hồ vẫn luôn hiện hữu song hành cùng những người lính trong từng chặng gian nan trận mạc với lời dặn như tạc vào lòng mỗi người lính giải phóng rằng:

- Nước thì không được chia!


Tác giả ngồi cầm cờ cùng đồng đội trước khi bước vào chiến dịch lập công dâng Bác (năm 1970) Ảnh Trần Hợi
Tác giả ngồi cầm cờ cùng đồng đội trước khi bước vào chiến dịch lập công dâng Bác (năm 1970) Ảnh Trần Hợi

Nguồn: https://www.facebook.com/note.php?note_id=10150246009170347


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu

Bác Hồ với sự kiện lịch sử Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954)

Mùa thu năm 1954, Bác Hồ với Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể từ “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc lại trở về giải phóng Thủ đô Hà Nội khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp xâm lược; để rồi bước vào một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, tái thiết đất nước. Bác Hồ trong lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 Trong thời điểm lịch sử bước ngoặt quan trọng này, Bác Hồ đã có nhiều cuộc họp với Trung ương và Hội đồng Chính phủ để giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị, quân sự, ngoại giao, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, nội vụ và tổ chức cán bộ…, đồng thời, tổ chức tiếp quản, giải phóng Thủ đô Hà Nội theo đúng Hiệp định Giơnevơ, nhanh chóng và có hiệu lực. Công tác tổ chức, bố trí cán bộ cách mạng trên cả nước được đặt ra và phải giải quyết kịp thời. Theo quyết định của Tru