Chuyển đến nội dung chính

Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Tổng cục cung cấp (tiền thân của Tổng cục Hậu Cận)

Tháng 01/1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ III của Đảng nhận định: “Cuộc kháng chiến có nhiều tiến bộ về phương diện tác chiến cũng như phương diện xây dựng lực lượng. Cơ sở chính trị của ta mạnh, hậu phương ta vững, mặt trận dân tộc của ta thống nhất, tinh thần quân dân ta cao”. Tình hình thế giới biến chuyển có lợi cho ta: Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Liên Xô, Trung Quốc và một số nước XHCN Đông Âu công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Vì vậy, Đảng ta chủ trương: “Cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị... làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta”. Về quân sự, Đảng ta xác định: “Một mặt chiến đấu để tiêu diệt địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng xây dựng Quân đội nhân dân ngày càng tinh nhuệ... tăng cường việc tiếp tế và hỏa lực của quân đội ta một cách chắc chắn”.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị, ngày 22/6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự Trung ương và chấn chỉnh tổ chức Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh. Ngày 11/7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 121/SL quy định tổ chức Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh gồm 3 cơ quan: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần). Theo đó, nhiệm vụ của Tổng cục Cung cấp (TCCC) là: Quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng. Về tổ chức TCCC gồm các cục: Quân lương, Quân trang, Quân y, Quân giới, Vận tải, Quân vụ và Phòng Quân khí. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 123/SL bổ nhiệm Đồng chí Trần Đăng Ninh (tức Nguyễn Văn Đáng) Ủy viên Trung ương Đảng- Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm TCCC.
Thực hiện các nghị quyết của Trung ương và Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối tháng 7/1950, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh đã triển khai việc chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác. Đối với TCCC, do mới thành lập, lại đang phải khẩn trương chuẩn bị mọi mặt bảo đảm cho chiến dịch Biên giới nên việc sắp xếp tổ chức biên chế mới thực hiện được một bước.
Theo Sắc lệnh 121/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký ngày 11/7/1950, Tổng cục Cung cấp gồm các cục: Quân lương, Quân trang, Quân y, Quân vụ, Vận tải và Phòng Quân khí, có nhiệm vụ quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng. Sắc lệnh ra đời khi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng đang khẩn trương chuẩn bị phục vụ Chiến dịch Biên giới. Lúc này, đồng chí Trần Đăng Ninh đang là đặc phái viên của Chính phủ phụ trách công việc sửa chữa đường sá phục vụ Chiến dịch. Chỉ về cơ quan được mấy ngày, đồng chí Trần Đăng Ninh lại cùng các bộ phận cán bộ đi ngay ra mặt trận, hành quân gấp lên Cao Bằng chỉ đạo việc huy động dân công, thóc gạo của các địa phương trên địa bàn mở Chiến dịch. Công việc ở hậu phương do các đồng chí Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và đồng chí Trần Hữu Dực, Phó Chủ nhiệm Tổng cục đảm nhiệm. Để phục vụ Chiến dịch, cấp trên còn điều động trên 200 cán bộ thuộc các cơ quan Trung ương và các Khu tăng cường cho cơ quan cung cấp mặt trận. Hầu hết các cán bộ này đều được huy động làm công tác dân công và chính trị tại các đội điều trị, bệnh viện quân y dã chiến.
Tại Hội nghị cung cấp toàn dân ngày 22/6/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đối với chiến sĩ phải săn sóc họ làm sao cho họ đủ ăn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc... Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một tấc vải phải đi thẳng đến chiến sĩ". Tuân theo lời dạy của Người, trải qua bao thời kì, ngành hậu cần quân đội luôn là bộ phận trong của lực lượng vũ trang và hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm vật chất phục vụ quân đội. Nhiều đơn vị và cán bộ chiến sĩ hậu cần được tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguồn:

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu

Bác Hồ với sự kiện lịch sử Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954)

Mùa thu năm 1954, Bác Hồ với Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể từ “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc lại trở về giải phóng Thủ đô Hà Nội khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp xâm lược; để rồi bước vào một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, tái thiết đất nước. Bác Hồ trong lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 Trong thời điểm lịch sử bước ngoặt quan trọng này, Bác Hồ đã có nhiều cuộc họp với Trung ương và Hội đồng Chính phủ để giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị, quân sự, ngoại giao, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, nội vụ và tổ chức cán bộ…, đồng thời, tổ chức tiếp quản, giải phóng Thủ đô Hà Nội theo đúng Hiệp định Giơnevơ, nhanh chóng và có hiệu lực. Công tác tổ chức, bố trí cán bộ cách mạng trên cả nước được đặt ra và phải giải quyết kịp thời. Theo quyết định của Tru