Chuyển đến nội dung chính

Những hoạt động trên đất Trung Hoa (1938- 1940)



Từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới Xô - Trung đến Lan Châu (thủ phủ tỉnh Cam Túc, tây bắc Trung Quốc), nơi có văn phòng của quân giải phóng Trung Quốc, để từ đó đi Tây An rồi Quảng Tây và tìm đường về nước hoạt động. Đây lần thứ ba người đến Trung Quốc - lần thứ nhất vào năm 1924 - 1927, lần thứ hai vào những năm 1929 - 1934. Mỗi thời kì Người đến Trung Quốc có bối cảnh lịch sử không giống nhau và nhiệm vụ của Người cũng khác nhau. Lần thứ nhất, người làm nhiệm vụ của một cán bộ của Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Nông dân, chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Lần thứ hai, Người chủ trì Hội Nghị thành lập Đảng và trải qua những năm tháng trong nhà tù ở Hồng Kông. Lần thứ này mục đích chính của Người là về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam; nhưng trên đường về nước, trong những năm sống và làm việc trên đất Trung Quốc, Nguyễn Ấi Quốc cũng đóng góp cho phong trào cách mạng nước bạn. Trong "quân phục và phù hiệu" Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá với bí danh Hồ Quang"[1], Người làm việc tại Phòng Cứu vong, thuộc Văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm.
Hồ Khải Quân, người Trung Quốc, phụ trách Phòng Cứu vong, đã kể lại hoạt động của Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ như sau: “Tôi cùng công tác với đồng chí Hồ Chí Minh từ cuối năm 1938 đến Xuân – Hè 1939 tại Phòng Cứu vong của Văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm và cùng ở trong một ngôi nhà lớn ở phía tây đường sắt trong thôn Lộ Mác. Hồi đó, Người mang tên là Hồ Quang, tiếng nói pha giọng Quảng Đông, tôi cứ tưởng đồng chí ấy là người Quảng Đông. Hồ Quang là ủy viên y tế iêm ủy viên bích báo; vì vậy cũng là thành viên lãnh đạo phòng. Tôi còn nhớ Hồ Quang từng phụ trách kiểm tra vệ sinh, làm việc rất chu đáo, yêu cầu rất nghiêm khắc… Hồ Quang còn phụ trách biên tập tờ Sinh hoạt tiểu báo, một tờ báo nhỏ  chuyền tay nhau đọc trong nội bộ cơ quan chúng tôi. Bản thảo được chép lại bằng bút lông rồi đóng thành tập. Nội dung chủ yếu là những sinh hoạt trong cơ quan, có biểu dương, có phê bình, khoảng 10 ra một số. Ngoài công việc biên tập và chép lại, Hồ Quang còn viết nhiều bài, có lúc làm cả những bài thơ nhỏ theo thể thơ cổ của Trung Quốc”[2].
Trong thời gian này, vào ngày 7-7-1937, quân phiệt Nhật tấn công bất ngờ vào Lư Câu Kiều (gần Bắc Kinh) và xâm lược với quy mô trên cả nước, hòng đặt nền móng thống trị ở Trung Quốc. Chúng đàn aspp dã man và bóc lột thậm tệ nhân dân Trung Quốc. Trong tình hình ấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm đánh giặc, cứu nước. Trận lớn đầu tiên ở Bình Hình Quan (Sơn Tây), Quân giải phóng Trung Quốc tiêu diệt hơn 3.000 quân tinh nhuệ của quân phiệt Nhật, cổ vũ niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nhật. Nguyễn ÁI Quốc đã viết nhiều bài tố cáo tội ác của phát xít Nhật, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Trung Quốc chiến dấu anh dũng chống kẻ thù xâm lược. Dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc với bút danh P.C.Lin, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đăng các bài này trên các báo Việt Nam[3].
Trog bài “Người Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?”, đăng trên báo Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta) ngày 12-2-1939 và ngày 5-3-1939, Nguyễn Ái Quốc đưa vào tư liệu về tội ác của phát xít Nhật đã gây ra ở trại tị nạn Nam Kinh từ giữa tháng 12-1937 đến giữa tháng 12-1938. Chúng đã tàn sát dã mann nhân dân, bắt cóc, hãm hiếp hàng chục nghìn đàn bà, con gái Trung Quốc ở lứa tuổi khác nhau. Theo tác giả, những vụ việc, những con số khách quan ấy, tuy chưa phản ánh đầy đủ tội ác của phát xít Nhật, nhưng “những bằng chứng xác thực đó do ngay tính chất xác thực của chúng, cũng đẫ đủ cho người ta có ý niệm về những gì bọn Nhật đã và đang tiến hành ở Trung Quốc và cũng như những gì mà chúng nhất định sẽ tiến hành tại các nước khác ở Châu Á, nếu một khi chúng đã thắng được nhân dân Trung Quốc”[4].Sự dự đoán tài tình này đã được xác nhận khi phát xít Nhật mở rộng sự xâm lược của chúng ở các nước Châu Á. Mặt khác, trước sự run sợ của chính quyền Tưởng Giới Thạch về sức mạnh Nhật Bản, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định tinh thần yêu nước, chiến đấu anh dũng của nhân dân Trung Quốc và tin rằng “những sự tàn bạo của bọ Nhật sẽ được đáp lại một cách đích đáng bằng chủ nghĩa anh hùng vô song của những người Trung Hoa đang chiến đấu cho nền độc lập và sinh mệnh mình”[5].
Trong “Thư từ Trung Quốc” đăng trên báo Notre Voix ngày 9-4-1939, với bút danh P.C.Lin, Nguyễn Ái Quốc không nhằm miêu tả những sự kiện chính trị quan trọng nhất của Hội đồng chính trị quốc gia của Trung Quốc lúc bấy giờ mà chủ yếu chỉ rõ sự cần thiết xây dựng thống nhất của Đảng Cộng sản và Quốc Dân đảng Trung Quốc trong mặt trận dân tộc chống Nhật, Người cũng lên án chủ nghĩa thất bại và khuynh hướng đấu hàng của Uông Tinh Vệ. “Thư từ Trung Quốc” đăng trên báo Notre Voix ngày 16-4-1939 không chi miêu tả sự sa lầy của quân xâm lược Nhật Bản bằng các tài liệu, sự kiện cụ thể chính xác, mà còn nêu lên sự dũng cảm thông minh của “anh em du kích chúng tôi đánh giặc chủ yếu là bằng mưu mẹo và sự bất ngờ”[6]. Trong một loạt bài khác “Chủ nghĩa anh hùng của công nhân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh chống Nhật” , “về chủ nghĩa Tơrốkít”… Nguyễn Ái Quốc không chỉ miêu tả phong trào yêu nước của nhân dân Trung Quốc chống Nhật mà còn đấu tranh chống những luận điệu và hoạt động của bọn Tơrốtkít.
Thông qua các bài viết “Thư từ Trung Quốc”, Nguyễn Ái Quốc truyền đạt cho Đảng Cộng Sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam những nội dung chính về đường lối, chủ trương của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và việc vận dụng vào cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Người nêu tám điểm xác định đường lối chủ trương của Đảng trong thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) trong tài liệu “Những chỉ thị mà tôi nhớ và truyền đạt”. Có thể xem tài liệu này là sự tổng kết lý luận, qua thực tiễn cách mạng, những vấn đề có tính chất nguyên lý. Đó là việc xác định các mục tiêu đấu tranh trước mắt, phù hợp với điều kiện cụ thể, mà không xa rời mục tiêu chung lâu dài; việc “ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi”, bao gồm người “bản xứ” và những người tiến bộ ở “chính quốc”; việc thu hút tư sản dân tộc vào Mặt trận để không đẩy họ “rơi vào tay bọn phản động (…) tăng thêm lực lượng cho chúng”; việc kiên quyết đấu tranh bọn Tơrốtkít… Người đặc biệt lưu ý việc mở rộng Mặt trận đoàn kết trong nước và quốc tế, xác định nguyên tắc xây dựng Mặt trận trên cơ sở “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và phải chân thực nhật”. Ngươi cũng căn dặn phải “học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị cho các đảng viên”[7]. Những ý kiến tổng kết mang tính lý luận và thực tiễn cao, thể hiện quan điểm đúng về việc giải quyết mối quan hệ giữa “dân tộc” và “giai cấp” , đối với cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa và phụ thuộc khác.
Với mục đích trở về nước hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đi dần về phía nam Trung Quốc, tìm cách bắt liên lạc với Đảng, tổ chức yêu nước Việt Nam. Trong khi chờ đợi, Người vẫn hoàn thành những nhiệm vụ được giao với cương vị một can bộ Quân giải phóng Trung Quốc. Người đã tham gia tổ chức các lớp huấn luyện du kích Nam Nhạc (Hồ Nam)[8] phụ trách việc nghe đài, lấy tin cho lớp huấn luyện (tháng 2 và tháng 6-1939). Năm 1940 ở Quế Lâm, Nguyễn Ái Quốc đã viết bài cho tờ Cứu vong nhất báo một tờ báo do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong thời kì chiến tranh chống Nhật. Với bút danh “BìnH Sơn”, Người viết nhiều bài phân tích âm mưu và tình hình suy yếu của bọn phát xít Mútxôlini (trong bài “Con nhái và con bồ, số ngày 24-11-1940). Bản chất bán nước của Pêtanh và chính phủ Visi được vạch rõ trong bài “Hai chính phủ Vécxây” số ra ngày 29-11-1940. Sự đoàn kết ủng hộ giữa nhân dân hai nước Việt Nam, Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung được trình bày trong bài “Ca dao Việt Nam và cuộc kháng chiến của Trung Quốc” số ra ngày 4-12-1940. Còn bài viết còn vạch trần những sự bịa đặt của bọn thực dân, đế quốc về cách mạng Việt Nam, những âm mưu của các tổ chức phản động như Việt Nam phục quốc quân (trong bài “Việt Nam phục quốc quân hay là mại quốc quân” số ra ngày 18-12-1940).
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc ở làng Tân Khư (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Quảng Tây) bắt được liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và chuẩn bị kế hoạch về nước. Trong thời gian ấy, Người đã tổ chức các lớp học và trực tiếp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam . Nhân dân Trung Quốc ở làng Nậm Quang và Nậm Tây (Tĩnh Tây, Quảng Tây) phần lớn là người Nùng, đã hết lòng che chơ, giúp đỡ những người cách mạng Việt Nam anh em hoạt động học tập, Nguyễn ÁI Quốc đã được nhân dân địa phương yêu mến, vì Người sống gần gũi, chan hòa, hết lòng tôn trọng yêu thương quần chúng.
Trng thời gian ở Trung Quốc (1938-1940) Nguyễn Ái Quốc theo dõi tình hình thế giới, phân tích diễn biến chính xác, rút ra những kết luận đúng đắn. Tháng 9-1939 khi chiến tranh thế giới nổ ra, Người dự đoán chiến tranh có thể lan đến Thái Bình Dương, nhưng chủ nghĩa phát xít nhất định sẽ bị tiêu diệt và đây là thời cơ cho cách mạng thành công. Cuối tháng 6-1940, sau khi nghe tin Pari thất thủ, Pháp đầu hàng Đức, Người nhận định “việc Pháp mất nước là một cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam, ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”[9]. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc quyết định nhanh chóng về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, tranh thủ thời cơ để giải phóng đất nước.
(trích GS.TS. Phan Ngọc Liên, chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn và lý luận cách mạng, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr178-186)




[1] Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,  Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr.87.
[2] Tư liệu phỏng vấn của Nhà lưu niệm “Bát biện” Quế Lâm, dẫn theo Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tiếng trung, tr.54-55.
[3] Những bài báo, ghi “Thư từ Trung Quốc” được đăng trên tuần báo Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta), một tờ báo công khai của Đảng Cộng Sản Đông Dương, xuất bản ở Hà Nội. Với nội dung tương tự, báo Dân chúng, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương xuất bản ở Sài Gòn, đăng liền ba số: 46 (ngày 21-1-1939), 47 (ngày 24-1-1939) và 48 (ngày 27-1-1939) dưới đầu đề “Những sự hung tàn của đế quốc Nhật”. Đây là lần đầu tiên, báo chí công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kì vận động dân chủ đăng bài của Nguyễn ÁI Quốc (cũng là lần đầu tiên bài viết của Người đăng trên báo Đảng).
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.98.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.3, tr.98.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.3, tr.108.
[7]Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.3, tr.138-139.
[8] Đây là lớp huấn luyện du kích do Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc hợp tác tổ chức, ở các lớp này , Tưởng Giới Thạch yêu cầu Đảng Cộng sản cử cán bộ đến giảng dạy về chiến thuật du kích . Diệp Kiếm Anh cùng một số cán bộ quân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đến giảng dạy. Nguyễn Ái Quốc tham gia lớp huấn luyện với tên và chức vụ công khai : Thiếu tá Hồ Quang, nhân viên điện đài.
[9] Vũ Anh: "Những tháng ngày gần Bác", trong cuốn Bác Hồ về nước, Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng, 1986, tr.15.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu

Bác Hồ với sự kiện lịch sử Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954)

Mùa thu năm 1954, Bác Hồ với Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể từ “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc lại trở về giải phóng Thủ đô Hà Nội khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp xâm lược; để rồi bước vào một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, tái thiết đất nước. Bác Hồ trong lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 Trong thời điểm lịch sử bước ngoặt quan trọng này, Bác Hồ đã có nhiều cuộc họp với Trung ương và Hội đồng Chính phủ để giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị, quân sự, ngoại giao, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, nội vụ và tổ chức cán bộ…, đồng thời, tổ chức tiếp quản, giải phóng Thủ đô Hà Nội theo đúng Hiệp định Giơnevơ, nhanh chóng và có hiệu lực. Công tác tổ chức, bố trí cán bộ cách mạng trên cả nước được đặt ra và phải giải quyết kịp thời. Theo quyết định của Tru