C.Mác cho rằng nông dân là “một
khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh
như nhau, nhưng lại không nằm trong những mối liên hệ nhiều mặt đối với nhau.
Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ
cô lập với nhau”. “ Trong chừng mực giữa những người nông dân chỉ có mối liên hệ
địa phương thôi… sự giống nhau về lợi ích của họ không tạo nên giữa họ một tính
chất cộng đồng nào, một mối liên hệ toàn quốc nào, hay một tổ chức chính trị
nào – thì họ không hình thành một giai cấp”[1]. Qua 2 luận điểm trên, chúng ta
thấy rằng nông dân không phải là một giai cấp. Bởi lẽ, lợi ích chung của nông
dân không hợp thành một lợi ích độc lập mà phụ thuộc vào lợi ích của các giai cấp
thống trị, giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản- do đó, nông dân không có hệ tư tưởng,
không có khả năng tổ chức ra các đảng chính trị của riêng mình. Sống trong chế
độ xã hội nào thì nông dân bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội ấy, bị phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Kế thừa quan điểm của C.Mác và
Ph. Ăngghen, Lênin nêu
rõ: “Lực lượng thứ hai – tức là lực lượng
đứng giữa tư bản phát triển và giai cấp vô sản. Đó là giai cấp tiểu tư sản, những
người tiểu sở hữu; đó là những phần tử hợp thành tuyệt đại đa số dân cư ở nước
Nga, tức là giai cấp nông dân”[2]. Dựa trên thực tế lịch sử đấu
tranh cách mạng, Lênin khẳng định: “Nông dân có thể trở thành lực lượng ủng hộ
một cách hoàn toàn và triệt để nhất cuộc cách mạng dân chủ”. Để phát huy khả
năng cách mạng của giai cấp nông dân, Lênin cho rằng không thể dùng bạo lực để
ép nông dân đi theo cách mạng mà phải cương quyết xây dựng mối quan hệ hòa thuận
với họ. Lê nin nhấn mạnh, trong xã hội tồn tại áp bức, bóc lột, nông dân là
giai cấp bị áp bức một cách ghê gớm, bị giam hãm và sinh hoạt trong những điều
kiện vô cùng thấp kém. Vì vậy, gai cấp nông dân chỉ có thể ủng hộ và đi theo
con đường cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm diệt trừ bọn đại địa chủ
và bọn tư sản, ủng hộ giai cấp vô sản tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Theo quan điểm của Mác thì giai cấp nông
dân là một giai cấp trừu tượng vì những giai cấp khác đều gắn với một phương thức
sản xuất, một hình thái kinh tế - xã hội nhất định còn giai cấp nông dân thì
không như thế. Nếu giai cấp tư sản, tiểu tư sản gắn với chủ nghĩa tư bản, giai
cấp địa chủ gắn với phương thức sản xuất phong kiến, giai cấp công nhân gắn với
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,… thì riêng đối với giai cấp nông dân lại
không gắn với bất kỳ một phương thức sản xuất hay hình thái kinh tế - xã hội
nào. Vì trong xã hội đầu tiên khi công xã nguyên thủy tan rã, ở phương Tây với
hình thái chiếm hữu nô lệ có nông dân mà ở phương Đông trong phương thức sản xuất
Á Châu cũng có nông dân. Trong phương thức sản xuất phong kiến, dù ở phương
Đông hay phương Tây đều có sự có mặt của nông dân trong các thái ấp, điền
trang, nông dân tự do, nông dân làm thuê cho địa chủ,…. Trong tư bản chủ nghĩa
và xã hội chủ nghĩa, hay ở các nước thế giới thứ ba hiện nay cũng có sự góp mặt
của giai cấp nông dân. Có thể thấy rằng, nông dân có mặt ở các phương thức sản
xuất khác nhau chứ không đặc trưng ở riêng phương thức sản xuất nào. Vì tính đặc
thù của giai cấp nông dân mà Marx đã có những cái nhìn định hình giai cấp này
trong từng phương thức sản xuất và hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mà nó
hiện diện.
Mác
và Angghen đã chia cơ cấu giai cấp – xã hội ở nông thôn thành ba tầng lớp chủ yếu
là tiểu nông, trung nông và phú nông. Tiểu nông là lớp dân cày nghèo, có ít ruộng,
không đủ nuôi sống cho mình, phải đi làm thuê, cấy rẽ cho nhà giàu. Hạng này
cày cho mình ít mà đi làm thuê cho người nhiều; Trung nông là lớp dân cày trung
bình, họ có ruộng đủ để cày lấy mà sống, không phải cho thuê và nói chung không
phải mướn thợ cày; Phú nông là lớp dân cày giàu, có thừa ruộng đất, tự mình và
vợ con mình cày cấy lấy một phần, còn một phần không cày cấy được phải mướn người
làm hoặc cho cấy rẽ. Như thế, phú nông cũng bóc lột sức lao động của những người
cày thuê, cấy mướn.[3]
Angghen
viết: “Trong toàn bộ nông dân, tiểu nông là tầng lớp quan trọng nhất không chỉ
đối với Tây Âu nói chung. Đối với toàn bộ vấn đề, trọng tâm chính là ở tầng lớp
này.”. Theo chủ nghĩa Marx – Angghen, tiểu nông là người sở hữu hoặc người đi
thuê, nhất là người sở hữu một mảnh ruộng đất không lớn hơn số ruộng đất mà họ
thường có thể cày cấy cùng với gia đình, cũng không bé hơn số ruộng đất cần thiết
để nuôi gia đình. Angghen chỉ ra rằng: “Cũng
như người tiểu thủ công, người tiểu nông này là một người lao động, anh ta khác
với người vô sản hiện đại ở chỗ là anh ta còn sở hữu những tư liệu lao động”[4].
Còn theo Lenin thì tiểu nông được nói đến như những nông dân nghèo là cố
nông hay những người nông dân công nhật. Đó là tầng lớp bần cùng của nông dân, cuộc
sống của người nông dân ngày càng rơi xuống thấp hơn “thuế má, mất mùa, tài sản đem phân chia, kiện tụng, làm cho người dân ở
nông thôn lần lượt kéo nhau đến tên cho vay nặng lãi, tình trạng mắc nợ ngày
càng trở thành phổ biến và nợ nần ngày càng chồng chất lên mỗi người”[5].
Đối
với tầng lớp trung nông: quan điểm của Marx – Lenin., trung nông đứng về mặt
kinh thế thì hiểu đó là những người tiểu nông. Họ có riêng hay lĩnh canh những
mảnh đất nhỏ, nhưng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, những mảnh đất đó ngoài sự
cung cấp tạm đủ cho nhu cầu gia đình và cho việc kinh doanh nông nghiệp thì ít
ra trong những năm được mùa có thể khiến cho họ có được một số lương thực thừa
khả dĩ trở thành một cái vốn. Và thông thường, cứ trong hai hay ba nông hộ thì
có một nông hộ cần phải thuê nhân công. Lenin khẳng định “giai cấp vô sản cách mạng không thể đề ra nhiệm vụ - ít ra trong một
tương lai gần đây và vào thời kỳ đầu của chuyên chính vô sản - là phải lôi cuốn
được tầng lớp xã hội đó về phía mình; chỉ cần trung lập được tầng lớp xã hội
đó, nghĩa là làm cho họ đứng trung lập trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản
và giai cấp tư sản”[6].
Những
sự dao động khi thì ngả về phía này khi thì ngả về phía khác của tầng lớp trung
nông là không thể tránh khỏi; và lúc bắt đầu thời kỳ mới, khuynh hướng chiếm ưu
thế trong tầng lớp này ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến là tán thành giai
cấp tư sản. Tầng lớp trung nông trực tiếp quan tâm tới việc đầu cơ, việc “tự
do” buôn bán và chế độ tư hữu; họ trực tiếp đối kháng với công nhân làm thuê.
Giai cấp vô sản chiến thắng sẽ cải thiện hoàn cảnh sinh hoạt của tầng lớp xã hội
bằng cách xóa bỏ chế độ địa tô và mọi thứ nợ nần cầm cố. Trong phần lớn các nước
tư bản chủ nghĩa, chính quyền vô sản không nên dùng biện pháp xóa bỏ ngay tức
khắc và hoàn toàn chế đợt hữu; nó phải bảo đảm cho lớp tiểu nông và trung nông
quyền sở hữu không những về mảnh đất riêng mà cả quyền sở hữu về toàn bộ đất
đai nói chung do họ lĩnh canh (xóa bỏ chế độ địa tô). Những biện pháp như thế kết
hợp với một cuộc đấu tranh quyết liệt chống giai cấp tư sản, sẽ đảm bảo cho
chính sách trung lập trung nông hoàn toàn thành công. Chính quyền nhà nước vô sản
phải đảm bảo việc chuyển sang nền nông nghiệp tập thể hóa một cách hết sức thận
trọng và từng bước, bằng cách phổ biến những kiểu mẫu thực tế, tuyệt đối không
nên dùng sự cưỡng bách nào đối với tầng lớp trung nông.
Theo
Lenin, tầng lớp đại nông là bọn chủ tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp; theo lệ
thường thì họ thuê nhiều nhân công và chỉ giống với “nông dân” ở chỗ họ có một
trình độ văn hóa kém, bản thân họ có tham gia lao động chân tay trong các nông
trang. Trong các tầng lớp thuộc giai cấp tư sản thù địch trực tiếp và quyết liệt
với giai cấp vô sản cách mạng, thì đại nông là tầng lớp đông nhất. Lenin nhấn mạnh
“trong hoạt động của nông thôn, các đảng
cộng sản phải hết sức chú ý đến cuộc đấu tranh chống tầng lớp xã hội này, để
làm cho đại đa số người lao động và bị bóc lột trong nhân dân nông thôn thoát
khỏi ảnh hưởng tư tưởng và chính trị của bọn bóc lột ấy”[7].
Mặt khác, Lenin cũng chỉ ra rằng “Sau khi
giai cấp vô sản đã thắng lợi ở các thành thị, tầng lớp xã hội này nhất định sẽ
dùng đến mọi hình thức kháng cự, phá hoại và sẽ trực tiếp dùng hành động vũ
trang chống lại cách mạng”[8].
Chính vì thế, trong lĩnh vực tư tưởng, giai cấp vô sản phải lập tức bắt đầu
chuẩn bị lực lượng cần thiết để tước bỏ vũ khí của toàn bộ tầng lớp ấy cùng một
lúc với việc lật đổ bọn tư bản trong công nghiệp, phải giáng cho tầng lớp này một
đòn quyết định nhất, thẳng tay nhất, chớp nhoáng nhất ngay khi chúng mới lộ ra
khuynh hướng kháng cự lại. Phải chú ý vũ trang giai cấp vô sản nông thôn để thực
hiện việc đó, phải chú ý tổ chức các “Xô viết nông thôn”, quyết không cho bọn
bóc lột tham gia các Xô viết ấy, trong đó, phải đảm bảo ưu thế của những người
vô sản và nửa vô sản nông thôn.
Kế
thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Ngày 3-7-1923 phát biểu tại
phiên họp thứ 25 Đại hội V Quốc tế cộng sản khi nói về tình hình kinh tế ở thuộc
địa, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong tất cả các thuộc địa, công nghiệp và thương
nghiệp phát triển rất yếu ớt và nhân dân hầu hết làm nghề nông, 95% số dân bản
xứ là nông dân”[9]. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927, Người
chỉ rõ: “nước ta kinh tế chưa phát đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân
cày”[10].
Tháng 11-1949, trong thư gửi Hội nghị Cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc, Người
viết: “Nước ta là một nước nông nghiệp.
Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân”[11] .
Đó là những con số mà Hồ Chí Minh đã đưa ra để đánh giá tình hình nông dân,
nông nghiệp nước Việt Nam thời kì lúc bấy giờ. Vì nhiều lí do khác nhau, mà thực
dân Pháp rất chú tâm đến vấn đề ruộng đất. Theo các số liệu thống kê, trước
cách mạng Tháng Tám, nông dân chiếm tới
97% tổng số nông hộ, nhưng chỉ có khoảng 36% diện tích đất canh tác. Ngoài ra,
khoảng trên dưới 40% số hộ nông dân có chút ít ruộng tư, còn khoảng 1/2 (ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ) và 2/3 số hộ (ở Nam Kỳ) không có lấy “mảnh đất cắm dùi”[12] .
Người cũng đánh giá, nhận định
vai trò của các tầng lớp trong giai cấp nông dân để đề ra những quan điểm. Hồ
Chí Minh chỉ rõ trong một báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng 1930 -
1931 ở Đông Dương như sau: “Sự bóc
lột vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản ở thuộc địa làm cho những người công nhân
sống trong điều kiện không chịu nổi. Sự tập trung lớn đất đai vào tay người
Pháp và giai cấp địa chủ bản xứ khiến
cho tình cảnh của trung nông và bần nông tồi tệ đi. Sự mất mùa liên tiếp và giá sinh hoạt cao gia tăng sự khốn cùng và
sự đau khổ của quần chúng lao động. Tất cả điều này khơi sâu thêm mâu thuẫn giữa
những kẻ áp bức và bóc lột với những người áp bức và bóc lột và làm cho tinh thần
đấu tranh của những người sau này sâu sắc”[13]. Năm 1925, trong cuốn “Đường
kách mệnh”, Người viết: “Công nông là gốc cách mệnh”, “công nông là chủ cách mệnh.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, trong cương lĩnh đầu tiên do người
khởi thảo ghi rõ: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo, phải hết
sức lãnh đạo cho dân cày nghèo để làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến”. Còn “phú nông, trung
tiêu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng,
ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập”[14]. Trong đường lối cải cách
ruộng đất (1953), Người chỉ rõ: “Dựa hẳn
vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, tiêu
diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất,
đẩy mạnh kháng chiến”[15]. Trong thời kỳ vận động
nông dân vào con đường hợp tác xã, Hồ Chủ tịch nêu rõ đường lối giai cấp của Đảng
ở nông thôn là “dựa hẳn vào bần nông và
trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông”[16].
Thông qua đó, chúng ta thấy rằng, Người cũng đã căn cứ vào tình hình,
thái độ của mọi tầng lớp để tập hợp lực lượng cách mạng. Và nông dân theo Người,
cũng được phân loại thành cố nông, bần nông, trung nông và phú nông. Tuy theo
hoàn cảnh mà họ được hưởng, được sở hữu số ruộng đất. Nắm bắt được vai trò, vị
trí của các tầng lớp này.
Trần Hoàng
Trích từ Trình bày những sai lầm trong công cuộc điều chỉnh ở miền Nam thời kì 1975 - 1985 từ góc độ nông dân và phong trào nông dân
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn
tập, NXB. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8, tr. 264-265.
[2] V.I.Lênin: Toàn tập (2005), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tập 43, tr.160.
[3] Qua Ninh – Vân Đình, Vấn đề
dân cày, NXB. Sự thật, Hà Nội, 1959, Tr. 22.
[4] C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển
tập, sđd, tập 22, tr.
719.
[5] C. Mác và Ph. Ăngghen:
Toàn tập, sđd, tập 22, tr.
721.
[6] Viện sử học (dịch), Chủ
nghĩa Marx – Lenin bàn về lịch sử, tập II, Nxb. Sử học, Viện sử học, Tr. 418.
[7] Viện sử học (dịch), Chủ
nghĩa Marx – Lenin bàn về lịch sử, tập II, Nxb. Sử học, Viện sử học, Tr. 418
[8] Viện sử học (dịch), Chủ
nghĩa Marx – Lenin bàn về lịch sử, tập II, Nxb. Sử học, Viện sử học, Tr. 419
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội, tr.283.
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 2, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội, tr.308.
[11] Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 5, Nxb Chính trị quốc
gia Hà Nội, tr.710.
[12] Nông dân và nông thôn Việt
Nam thời cận đại (1990), tập 1, Nxb Khoa học xã hội HN, tr.18.
[14] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,
tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 3.
[15] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,
tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 80.
[16] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập,
tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 487.
Nhận xét
Đăng nhận xét