Chuyển đến nội dung chính

Những quan điểm của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong thập kỷ 20 thế kỷ XX về cách mạng Đông Dương


Từ sau Đại hội Tua (Tours), song song với những hoạt động Quốc tế, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Đông Dương để xác định phương hướng chiến lược, xây dựng tổ chức, đào tạo cán bộ, tiến tới thành lập Đảng của giai cấp công nhân. Vì thế, những quan điểm của Nguời về cách mạng Đông Dương luôn luôn thể hiện dòi dào sức mạnh của chân lý và sức sống mãnh liệt của phong trào chống chủ nghĩa thực dân. Nó cũng phản ánh tầm nhìn sâu rộng nhạy bén, một phương pháp khoa học và niềm tin sắt đá của Người ở sức mạnh vô tận của nhân dân Đông Dương trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng khỏi gông xiềng nô lệ và khả năng to lớn của họ có thể đóng góp cho các phong trào cách mạng trên thế giới. Quan điểm đó của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở những nội dung sau đây:
1. Trước hết, Người xác định hướng đi và mục tiêu cơ bản của cách mạng Đông Dương theo quy luật phát triển của thời đại mới: giải phóng dân tộc đi liền với giải phóng giai cấp, cả hai công cuộc giải phóng đó đều là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.
Vào nửa đầu năm 1921, Người công bố hai bài báo quan trọng với nhan đề Đông Dương trên La Revue communiste, trong đó Người trình bày những vấn đề rất cơ bản về cách mạng Đông Dương. Người đặt vấn đề “Chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở Châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Đó là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện nay.
Trả lời câu hỏi đó, chúng ta có thể khảng định rằng, có. Muốn hiểu rõ, chúng ta phải xem xét tình hình hiện nay ở lục địa Châu Á về mặt lịch sử và địa lý”[1].
Song, Đông Dương hiện nay đang đứng ở chỗ nào của con đường cách mạng đó và nhiệm vụ của những người cách mạng Đông Dương, trách nhiệm của các đảng cộng sản ở các nước đế quốc chủ nghĩa đối với cách mạng ở xứ thuộc địanày như thế nào? Người viết: “Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột hiện nay đã chính muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường vẫn nghĩ như thế , thì lại càng sai hơn nữa” (t.1, tr.27).
Người Đông Dương có sức sống cách mạng rất mãnh liệt mà chính sách đầu độc và ngu dân của chủ nghĩa thực dân không thể làm cho nó tê liệt được, trái lại, họ đang hướng theo trào lưu cách mạng của thế giới. Người viết: “Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn về thể xác, bị bịch mồm và bị gian hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bầy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản; rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: Người Đông Dương không chết. Người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương” (t.1, tr.27). “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ ột cách ghê gớm khi thờ cơ đến” (t.1, tr.28). Nhiệm vụ của những người cách mạng là gieo mầm trên mảnh đất ấy để làm bật dậy tiềm năng cách mạng to lớn.
2. Cách mạng Đông Dương phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thể phát triển đúng theo con đường đã vạch ra. Xuất phát từ sự phân tích vị trí giai cấp công nhân trong nền công nghiệp hiện đại. Người nêu bật khả năng của ó trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới.
Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử và lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng .
Ở Đông Dương, đế quốc Pháp đã du nhập phương tức sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thái thực dân, từ đó dã xuất hiện giai cấp công nhân, trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống hoạt động của chủ nghĩa tư bản Pháp ở Đông Dương trong lãnh vực công nghiệp,  nông nghiệp, tài chính, ngân hàng… và sự bóc lột của nó đè nặng lên nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia. Người rút ra kết luận: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đông Dương đã tạo ra ở xứ Đông Dương đã tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản nông nghiệp: (t.2, tr.35). Người đã đưa ra số liệu rất cụ thể về mức độ tập trung của nó trong những trung tâm kinh tế và những nghành công nghiệp quan trọng như nghành khai thác than và khoáng sản, nghành vận tải, để khẳng định tính chất hiện đại của giai cấp vô sản Đông Dương. Đồng thời, Người cũng nêu rõ sự trưởng thành nhanh chóng về ý thức giai cấp và vai trò của họ trong phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương. Chính quyền thực dân đã bộc lộ rõ sự sợ hãi của chúng trước sự phát triển của phogn trào cách mạng mà giai cấp công nhân dâng trở thành lực lượng nòng cốt và thúc đẩy phong trào đó tiến triển theo khuynh hướng cộng sản. Người viết: “Mặc dù có hoạt động bề ngoài về kinh tế, và mặc dù làm ra về an tâm, những tên đế quốc Pháp ở Đông Dương  luôn luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩa về một cuộc cách mạng sắp tới. Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người An Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa để đế quốc tự mình đào hố để chộn mình…
Cái mà bọn đế quốc thường sợ hãi là sự tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản” (t.2, tr.361).
Để đối phó với tình hình cách mạng đang phát triển ở Đông Dương, bọn thực dân ra sức hò hét, dọa nạt trừng trị những người cách mạng, như tên Anbe Xảô, nguyên là Toàn quyền Đông Dương, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đã tưng nói và Varen khi nhận chức toàn quyền Đông Dương cũng đã tuyên bố nhiệm vụ đầu tiên của mình là dùng mọi biện pháp để ngăn cản sự thâm nhập của công cuộc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản vào Đông Dương. Nhưng trái lại như Người đã khẳng định: “Luôn luôn nói đến chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa đế quốc đã tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản, mặc dù nó không muốn và không biết như vậy” (t.2, tr.362).
Khi đánh giá vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Người không hề coi nhẹ lực lượng cách mạng to lớn của giai cấp nông dân, nhưng họ không thể tự trút bỏ được ách nô lệ và tạo lập xã hội mới: Chỉ với lực lượng riêng của chính mình, nông dân không bao giờ có thể trút bỏ được gánh nặng đang đè nén họ. Sức mạnh của giai cấp công nhân chỉ có thể phát huy đúng hướng, nếu giai cấp nông dân được đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.
Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân được thực hiện thông qua hoạt động của bộ tham mưu và tổ chức cao nhất của nó là Đảng Cộng sản. Vì vậy, cùng với việc xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương. Người đã gây dựng tổ chức, đào tạo cán bộ để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản.
3. Sự nghiệp cách mạng của các nước Đông Dương phải do nhân dân Đông Dương tiến hành và họ hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó khi được đảng của giải cấp công nhân lãnh đạo và ánh sáng của chủ nghĩa Mác -  Lênin soi đường. So với những người lao động ở các nước tư bản, nhân dân Đông Dương không có những điều kiện cần thiết về đời sống văn hóa và sinh hoạt dân chủ để nâng cao trình độ hiểu biết của mình, nhưng sự áp bức bóc lột nặng nề chủ nghĩa thực dân đã khiến họ luôn luôn sẵn sàng đứng dậy đấu tranh như đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ” (t.1, tr.28).
Trong điều kiện đó, những người xã hội chủ nghĩa cần nhanh chóng và tăng cường giáo dục quần chúng, vạch trần mọi thủ đoạn bịp bợm của bọ thực dân. Được giáo dục, tổ chức và lãnh đạo theo đường lối đúng đắn, nhân dân Đông Dương sẽ tiến bộ rất nhanh chóng và khi thời cơ đến họ sẽ đứng dậy đập tan chế độ thuộc địa , đồng chí Nguyễn Ái Quốc , đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Người Đông Dương tiến bộ một cách mầu nhiệm và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của họ… Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (t.1, tr.28).
4. Theo quan điểm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thắng lợi của cách mạng Đông Dương không chỉ phá tung gông xiềng nô lệ của chủ nghĩa thực dân ở khu vực này, mà còn là sự hỗ trợ tích cực nhất cho công cuộc cách mạng của giai cấp vo sản ở chính quốc. Trong bài Đông Dương đăng trên La Revue Communiste. Người đã trình bày quan điểm đó: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Chau Á bị tàn sát và bị áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của vài tên thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện sống còn của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Quan điểm đo của Người xuất phát từ chỗ đánh giá mọi mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở chính quốc đã phát triển tới mức độ gay gắt và chín muồi. Đồng thời với sự bùng nổ của phong trào giải phóng thuộc địa dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc là hai dòng thác của một quá trình cách mạng vô sản, cùng hướng vào mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Hai dòng thác đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động hỗ trợ lẫn nhau. Hơn thế nữa, phong trào giải phóng thuộc địa còn giữ một vai trò đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản chính quốc, như Lênin đã nhận định: Hiện nay vận mệnh của toàn bộ văn mnh phương Tây tùy thuộc rát nhiều vào việc lôi cuốn quần chúng lao động phương Đông vào đời sống chính trị.
Quán triệt tinh thần đó của chủ nghĩa Lênin, một mặt,, Người xác định cho nhân dân Đông Dương ý thức chủ động cách mạng không trông chờ và không lệ thuộc vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chính quốc; mặt khác, Người luôn luôn tuyên truyền, giải thích tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa và phê bình các đảng cộng sản ở các nước đế quốc chưa quan tâm đúng mức và ủng hộ tích cực phong trào giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Tua, Người nói: “Chúng tôi thấy rằng việc Đảng Xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba có nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa… và mai đây, chúng tôi sẽ vui mừng nếu Đảng phái một đồng chí của Đảng để nghiên cứu tại chỗ những vấn đề ở Đông Dương và đề xuất những hoạt động cần phải tiến hành” (t.1, tr.23).
Rất nhiều lần sau đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã phê bình Đảng Cộng sản Pháp và một số đảng cộng sản khác chưa hoạt động tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Tại Đại hội Quốc tế lần thứ năm của Quốc tế cộng sản, Người đã nói: “Sẽ không phải quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề cập đến quần chúng các nước thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng đó vẫn không có hiệu quả gì” (t.1, tr.277).  Theo Người, sở dĩ như vậy, vì nó trái với chủ nghĩa Lênin. Người nhận xét, các Đảng đó chưa thực hiện những biện pháp giáo dục giai cấp công nhân nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính và tinh thần gần gũi quần chúng lao động các nước thuộc địa. Đối với Đảng Cộng sản Pháp, Người viết: “Còn về tôi, một người sinh trưởng ở một nước hiện nay là thuộc địa của Pháp và là một đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng Đảng Cộng sản Pháp chúng tôi làm rất và rất ít cho các nước thuộc địa” (t.1, tr.28). Người đề nghị thực hiện những biện pháp cụ thể về tuyên truyền cho vấn đề thuộc địa, về việc gửi một số đồng chí ở các nước thuộc địa sang học ở Đại học Lao động cộng sản phương Đông và đặt nhiệm vụ cho các đảng viên phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa… Người nói: “Theo tôi, những đề nghị này là hợp lý và nếu Quốc tế Cộng sản và các đại biểu của Đảng chúng tôi tán hành thì tôi tin rằng đến Đại hội lần thứ VI, Đảng Cộng sản Pháp chúng tôi sẽ có thể nói rằng Mặt trận thống nhất nhân dân chính quốc và thuộc địa đã trở thành sự thật” (t.1, tr.281-282).
5. Cần phải xây dựng và tăng cường tính đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Đông Dương và Liên Xô vĩ đại. Để đạt tới mục tiêu đó, trước hết Người khẳng định và nêu cao giá trị mở đường của Cách mạng tháng Mười à những bài học kinh nghiệm quý giascura nó đối với cách mạng thuộc địa mà nhân dân Đông Dương cần nhận thức rõ và vận dụng thực hiện. Người viết: “Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông, các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới.
Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công, nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” t.2, tr.280).
Hướng về Liên Xô và những người anh em đang đấu tranh trên thế giới, Người kêu gọi họ hãy ra sức cổ vũ, động viên và đoàn kết với nhân dân Đông Dương, giúp đỡ họ trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng. Mối tinh thân ái và sự phối hợp hành động giữa nhân dân Đông Dương với nhân dân Liên Xô và bè bạn quốc tế sẽ trở thành lực lượng to lớn, ngăn chặn những hành động dã man, tàn bạo của bọn đế quốc và làm tăng thêm sức mạnh của nhân dân Đông Dương trong quá trình đấu tranh lật đổ chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Với tình cảm sâu đậm với nhân dân Đông Dương đang chịu bao nỗi khổ nhục dưới ách thống trị của thực dân Pháp và với niềm tin vững chắc ở tinh thần quốc tế vô sản của nhân dân Liên Xô và những người lao động trên thế giới đamg đấi tranh chống các giai cấp thống trị. Người viết: “Hỡi những ai đấu tranh ở khắp nơi, hỡi các bạn Ngaddax tự giải phóng mình khỏi tay bọn cường quyền, chúng tôi kêu gọi: “Những người bạn bất hạnh của các bạn hiện đang giẫy giụa ở Đông Dương. Họ đang trải qua những phút giây khó khăn dể tự giải phóng. Đế quốc Pháp đang giết hại họ, đang tước đoạt của cải của họ. Mong các bạn nghĩ tới họ, tiếng thét của các bạn để chặn bàn tay giết người của bọn đế quốc Pháp ăn cướp. Mong rằng sự quan tâm của các bạn đối với phong trào đấu tranh sẽ cổ vũ họ trong tương lai lật đổ bọn đế quốc áp bức bóc lột” (t.2, tr.365-366).
Người luôn xác định Liên Xô là trụ cột của khối đoàn kết chiến đấu của các lực lượng cách mạng thế giới và nhờ vậy, tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Đông Dương và những người anh em Xôviết là một điều kiện rất quan trọng để cách mạng Đông Dương gắn bó và phối hợp hoạt động với các dòng thác cách mạng thế giới. Trong thực tế, Liên Xô đã thực hiện trách nhiệm cao cả của mình trong việc giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Liên Xô đã tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu các dân tộc phương Đông gặp gỡ đại biểu các các đảng công nhân phương Tây tại Đại hội Bacu để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của cách mạng thế giới. “Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản ở các nước xâm lược và giai cấp vô sản ở các nước bị xâm lược đã nắm tay nhau trong tình cảm anh em và cùng nhau tìm cách đấu tranh cho có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ” (t.2, tr.120).
Mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn, nước Nga cách mậng vẫn hết lòng giúp đỡ các dân tộc thuộc địa. Việc làm đầu tiên của cách mạng Nga là thành lập Trường đại học phương Đông để đào tạo cán bộ cách mạng cho phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa. Sự nghiệp vĩ đại đó của nhà trường được thể hiện ở việc giáo dục cho các chiến sĩ tương lai ấy nằm được nguyên lý đấu tranh giai cấp, làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc, đoàn kết với giai cấp vô sản phương Tây, tạo ra sự hợp tác chiến đấu thật sự sau này giữa hai lực lượng cách mạng đó, một sức mạnh cô địch, đảm bảo cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng, làm cho các dân tộc thuộc địa hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đi tới liên minh phương Đông tương lại, đó là cái cánh của cách mạng vô sản; nêu lên tấm gương cho giai cấp vô sản ở các nước có thuộc địa về những đều họ có thể làm và phải làm cho những anh em của họ đang bị nô dịch.
Mối tính đoàn kết  chiến đấu giữa nhân dân Đông Dương và nhân dân Liên Xô do đồng chí Nguyễn Ái Quốc xây dựng nền móng từ thập kỷ 20 thế kỷ XX sẽ ngày càng phát triển và đem lại nhiều kết quả tốt đẹp.
Những quan điểm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Đông Dương trong thập kỷ 20 thế kỷ XX là cơ sở chính trị của mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Nhân dân mỗi nước đều có thể tìm thấy ở đó con đường tất yếu để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc và tình đoàn kết keo sơn giữa ba dân tộc, sức mạnh vô địch của sự nghiệp cao cả đó. Sự định hướng chiến lược của đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho cách mạng Đông Dương là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng ba nước trong thời đại mới.
Trích từ GS.TS. Trịnh Nhu (2007), Mấy vấn đề lịch sử Việt Nam: tái hiện và suy ngẫm, NXB. CTQG, HN, tr.172-181.
Các bài viết của Hồ Chí Minh được trích từ Hồ Chí Minh toàn tập, án hành năm 2002, NXB. CTQG, HN.





[1] Nguyễn Ái Quốc: “Đông Dương”, Tạp chí La Revue communiste, số 15, tháng 5-1921. Hiện lưu trữ tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu

Bác Hồ với sự kiện lịch sử Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954)

Mùa thu năm 1954, Bác Hồ với Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể từ “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc lại trở về giải phóng Thủ đô Hà Nội khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp xâm lược; để rồi bước vào một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, tái thiết đất nước. Bác Hồ trong lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 Trong thời điểm lịch sử bước ngoặt quan trọng này, Bác Hồ đã có nhiều cuộc họp với Trung ương và Hội đồng Chính phủ để giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị, quân sự, ngoại giao, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, nội vụ và tổ chức cán bộ…, đồng thời, tổ chức tiếp quản, giải phóng Thủ đô Hà Nội theo đúng Hiệp định Giơnevơ, nhanh chóng và có hiệu lực. Công tác tổ chức, bố trí cán bộ cách mạng trên cả nước được đặt ra và phải giải quyết kịp thời. Theo quyết định của Tru