Chuyển đến nội dung chính

Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, bắt đầu tham gia hoạt động chính trị


Giữa lúc cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất đang diễn ra ác liệt, tình hình ở Đông Dương có nhiều biến động, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp vào khoảng cuối năm 1917. Vì Người cho rằng Paris luôn là trung tâm của Châu Âu, những diễn biến chính trị sẽ dồn về Paris - quê hương của Công xã Paris 1871. Hơn thế nữa Paris lúc này đang tập trung nhiều người Việt Nam yêu nước sinh sống trong đó có những người Nguyễn Tất Thành rất kính trọng như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Người sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.

Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com Poăng (Pari), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923


Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng rất nhiều lần chuyển chỗ ở. Lúc đầu Người ở phố Charonne trong một thời gian ngắn; từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 6 năm 1919 ở nhà số 10, phố Stokholm; ngày 12 tháng 6 năm 1919 chuyển đến ở tại nhà số 56 phố Monsieur le Prince; vào tháng 7 năm 1919 ở nhà số 6, phố Villa des Gobelins, quận 13; ngày 14 tháng 7 năm 1921 chuyển đến nhà số 12, phố Buyo. Trong tháng 7 năm 1921, Nguyễn Tất Thành làm thợ ảnh và trọ tại ngôi nhà số 9, ngõ Compoint, quận 17, Paris, một trong những khu lao động nghèo nhất của Thủ đô nước Pháp. Căn phòng trọ rất thiếu thốn tiện nghi, không có lò sưởi nên mùa đông rất lạnh.
Ở Paris, Nguyễn Tất Thành giành nhiều thời gian đi sâu sát những khu vực có đông Việt kiều, vận động cổ vũ tinh thần yêu nước, tố cáo tội ác của bọn thực dân đế quốc, dần dần được mọi người yêu quí tin tưởng và trở thành linh hồn của “Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp”. Trong 32 một báo cáo của mật thám Pháp đã khẳng định: “Nguyễn Ái Quốc (tên của Nguyễn Tất Thành lúc trở về Pháp) nổi lên là người lãnh đạo có uy tín đối với người Việt tại Pháp, trong khi vai trò của Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường lu mờ dần.”[1]
Ban đầu Nguyễn Tất Thành vẫn chỉ “là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng”. “Trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ Dân chúng, cơ quan của Đảng Xã hội Pháp là đã in những lời yêu cầu của Việt Nam. Ông Nguyễn tới tòa soạn. Chủ nhiệm báo, ông Giăng Lônggh (Jean Longuer) cháu ngoại của  Karl Marx và là Nghị viên của Quốc hội Pháp, đã tiếp ông. Ông nói cho ông Nguyễn rõ tất cả tình cảm của ông đối với nhân dân Việt Nam. Ông khuyến khích ông Nguyễn viết bài và ông sẽ đăng lên báo Dân Chúng để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Có thể nói cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự mở rộng hiểu biết chính trị của ông Nguyễn. Nó đã làm cho ông Nguyễn hiểu rõ nhân dân Pháp”[2].
Sau đó, Nguyễn Tất Thành không ngừng mở mang những hiểu biết của mình bằng việc tích cực tham gia các câu lạc bộ, tham gia diễn thuyết tranh luận tại các cuộc mít tinh, hội họp, ham mê đọc báo chí cánh tả trong đó
đặc biệt là những tác phẩm của nhà văn phản chiến Henri Barbusse - đảng viên Đảng Xã hội Pháp, với Marcel Cachin - một nhà cách mạng nổi tiếng, với chủ bút báo “Đời sống công nhân”, với Jean Longuet - chủ nhiệm báo “Dân chúng”, với các nhà xã hội cánh tả khác... Từ những mối quan hệ này mà Nguyễn Tất Thành dần dần đi vào môi trường hoạt động chính trị sôi động và Người đã tìm thấy những điều quan trọng, đó là sự giống nhau giữa giai cấp vô sản Pháp với nhân dân thuộc địa; ở Pháp còn có những đảng phái, những tổ chức cảm thông với nhân dân thuộc địa và không ủng 33 hộ chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp. Nguyễn Tất Thành phấn khởi nhất khi những lời tố cáo về chính sách độc ác của chủ nghĩa thực dân Pháp tại Đông Dương, nỗi thống khổ của nhân dân thuộc địa của Người được những người bạn Pháp rất lắng nghe và ủng hộ.
Năm 1918, Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18 tháng 6 năm 1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Versailles (Pháp). Hội nghị này thực chất là nơi chia phần giữa các nước đế quốc thắng trận và trút hậu quả chiến tranh lên đầu nhân dân các nước thua trận và các dân tộc bị áp bức. Văn kiện chính của Hội nghị xác định sự thất bại của nước Đức và các nước đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế giới theo hướng có lợi cho các đế quốc thắng trận mà chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp. Nhân danh một nhóm người An Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, gồm tám điểm và được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite) gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles, đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Tất Thành còn tự tay viết bản yêu sách bằng hai thứ tiếng: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề “Việt Nam yêu cầu” và một bản chữ Hán nhan đề “An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư”. Người đã tự  bỏ tiền túi của mình thuê in 6.000 Bản yêu sách của nhân dân An Nam để phân phát trong các cuộc hội họp, míttinh, trên đường phố Paris.
Về sự kiện này Trần Dân Tiên, tác giả cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” cho hay ý kiến đưa ra yêu cầu do ông Nguyễn (Nguyễn Tất Thành) đề ra, và luật sư Phan Văn Trường là người viết bản tiếng Pháp do lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Một số tài liệu khác cũng nêu thông tin như trên.
Tám điểm của Bản yêu sách gồm
1.  Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
2.  Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An
Nam.
3.  Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4.  Tự do lập hội và hội họp.
5.  Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6.  Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh
cho người bản xứ.
7.  Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8.  Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.[3]
Bản yêu sách được ký tên như sau:
Thay mặt Hội những người An Nam yêu nước
[ký tên]
Nguyễn Ái Quốc
Đây là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.
Bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được Hội nghị xem xét. Ngoài việc phân phát và phổ biến bản yêu sách này, Nguyễn Ái Quốc còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng minh dự hội nghị, nhưng cũng không gây được sự chú ý. Tuy nhiên nó lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Việc có một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt Nam những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực là sự kiện đánh dấu dấu hiệu mới cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Qua việc bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc sau này đã viết: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.”[4]
Ngoài ra, Người đã tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ tiếng “một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư” để phân phát trong các cuộc hội hợp, míttinh, phát đi nhiều nơi và bí mật về Việt Nam. Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Pari, viên mật thám Pháp Pôn Ácnu (Paul Arnoux) chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Pari, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bản Yêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”[5]. Cái tên Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người Việt Nam yêu nước biết đến. Nhiều nhà nho yêu nước ở Việt Nam đã nói: “Bầu trời Việt Nam đã xuất hiện một vì sao mới, đó là Nguyễn Ái Quốc”[6]. Thời gian đầu khi tới Paris, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Ái Quốc được các đồng chí trong Ban đón tiếp những người lao động nhập cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Cuộc sống của Người lúc đó gặp rất nhiều khó khăn, vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, nhưng Người vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động. Nguyễn Ái Quốc thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp, từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, Người trả lời: “Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: ‘Tự do, Bình đẳng, Bác ái’”. Nguyễn Ái Quốc cũng đã khẳng định rằng: “Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy ( hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, thì tôi chưa hiểu”[7]. Từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh, guyễn Ái Quốc thấy mình cần phải viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công nhân và chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa Người đến với hoạt động báo chí. Trong hai năm 1919-1920, Nguyễn Ái Quốc đã viết 5 bài báo. Người viết bài “Vấn đề bản xứ (Hồ Chí Minh, toàn tập, 2009), đăng trên báo Nhân đạo (L' Humanité  – tờ báo này là cơ quan phát ngôn của Đảng Cộng sản Pháp), phát hành ngày 2 tháng 8 năm 1919”. Với nội dung là “nhắc lại những nội dung chính “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles tháng 6 năm 1919, khẳng định nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam”. Báo Dân chúng (Le Populaire) đăng bài Đông Dương và Triều Tiên của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo nhắc đến sắc lệnh của Thiên Hoàng công bố tại Tokyo ngày 19 tháng 8 năm 1919 với nội dung định rõ quyền bình đẳng giữa người bản xứ Triều Tiên với người Nhật trong tất cả các uật lệ. Bài báo so sánh chính sách cai trị của đế quốc Nhật ở Triều Tiên và đế quốc Pháp ở Đông Dương, nghiêm khắc lên áan chính sách ngu dân của Pháp”[8].
Qua những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thuở đầu đến nước Pháp vào năm 1917 đến nay, chúng ta có thể thấy rằng với lòng yêu nước, thương dân, muốn giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ, Người tích cực tham gia các tổ chức Việt Kiều ở Pháp, Đảng Xã hội Pháp, tham gia các cuộc hội hợp, ra sức làm việc và học hỏi. Người bắt đầu sự nghiệp viết báo. Điều đáng chú ý ở đây, bản yếu sách với bút tích Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên thể hiện nguyện vọng của nhân dân An Nam.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc càng được nâng cao, qua Báo cáo của Bộ Nội Vụ Pháp, ngày 30 tháng Giêng năm 1920:”về phong trào đòi độc lập của Đông Dương ở Pari”. (Tài liệu lưu tại kho tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh. Kí hiệu H20C2/02). Báo cáo nêu rõ:“Từ cuộc điều tra về vấn đề tuyên truyền tại các Trung tâm của người Việt Nam ở Pari về phong trào đòi độc lập của Đông Dương, cho ta kết luận là linh hồn của phong trào không phải là ai khác ngoài ông Nguyễn Ái Quốc, tổng thư ký của “nhóm những người Việt Nam yêu nước”, thư ký của “Nhóm các nhà cách mạngViệt Nam”. “Ông Nguyễn Ái Quốc tự tay viết những truyền đơn như bản ‘Yêu cầu của nhân dân Việt Nam’ để được gởi lên văn phòng Bộ. Những nhân thư Phan Châu Trinh, Khánh Kỳ, Phan Văn Trường như người ta đã nói đã ít nhiều bị giảm uy tín ở Đông Dương và ông Nguyễn Ái Quốc đã vươn lên đứng đầuphong trào (cách mạng) Đông Dương. Trước đây trong tay những người đồng bào này của ông. Nhưng những người này vẫn là các cố vấn cà các trợ thủ đắc lực của ông Nguyễn Ái Quốc”[9].
Với lòng yêu nước, thương dân và vị trí, vai trò trong lịch sử Việt Nam đòi hỏi Nguyễn Ái Quốc cần tìm kiếm một con đường cứu nước khi đã đi khắp nởi trên thế giới và trở về Pháp hoạt động cách mạng. Qua các bài báo trên, chúng ta thấy rõ về mặt tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực dân Pháp. Khát vọng của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng làm thế nào và đi theo hướng nào để đạt được mục đích đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn còn đang tìm kiếm.
Trần Hoàng (viết chung)
Trích từ Quá trình chuyển biến từ một người yêu nước trở thành người cộng sản của Nguyễn Ái Quốc (1911 - 1920)


[1] Hồng Hà, 1976), Thời thanh niên của Bác Hồ, NXB. Thanh niên, TP.HCM.
[2] Trình Quang Phú (2015), Đường bác Hồ đi cứu nước, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 91 – 95.
[3] Hồ Chí Minh (2009), toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, trang 435 -436.
[4] Trần Dân Tiên (2015), Những mẫu chuyện về đời hoạt động củ Hồ Chủ tịch, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Hồng Hà, 1976), Thời thanh niên của Bác Hồ, NXB. Thanh niên, TP.HCM, trang 81.
[6] Trình Quang Phú (2015), Đường bác Hồ đi cứu nước, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội trang 69).
[7] Trình Quang Phú (2015), Đường bác Hồ đi cứu nước, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội trang 104.
[8] Bảo tàng Hồ Chí Minh (2008), Tìm đường cứu nước (1911 – 1920), trong Hồ Chí Minh tiểu sử, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[9] Phạm Ngọc Trâm, 2011), Con đường cứu nước Hồ Chí Minh, NXB. Tổng hợp, TP.HCM, trang 183 - 184.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam Bộ trước khi sang Pháp đàm phán, năm 1946

Với tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự toàn vẹn lãnh thổ, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất, miền Nam luôn đặc biệt quan trọng trong suy nghĩ, hành động của Người. Trong quá trình hoạt động cách mạng, lãnh đạo đất nước, bằng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng, gần gũi, giản dị và tha thiết nhất, Người đã gửi nhiều bức thư, bức điện, hay thông qua những bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường cũng như lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam.  Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp kéo vào Sài Gòn gây hấn, tái chiếm Việt Nam. Với tinh thần "độc lập hay là chết", nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Trước khí thế chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân Nam Bộ chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tặng cho quân và dân

Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở Trại Kim Đồng

Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu Trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với các cán bộ phụ trách, giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía: - Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các chú lại rào dây thép gai như nhà tù thế này ? Chú Thuận thưa: - Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ ! Bác lắc đầu: Các cô, các chú phải tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai các cháu. Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui chơi. Bác khen: “Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn - Bác hỏi cán bộ phụ trách Trại - còn thế nào, các cô, các chú biết không ? Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp ? - Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ. Bác Hồ mỉm cười: - Chú nói mới đúng có một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu

Bác Hồ với sự kiện lịch sử Giải phóng Thủ đô Hà Nội (10-10-1954)

Mùa thu năm 1954, Bác Hồ với Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và các đoàn thể từ “Thủ đô gió ngàn” Việt Bắc lại trở về giải phóng Thủ đô Hà Nội khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp xâm lược; để rồi bước vào một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước, giải quyết những nhiệm vụ quan trọng từ chiến tranh chuyển sang hoà bình, tái thiết đất nước. Bác Hồ trong lễ duyệt binh ngày 1/1/1955 Trong thời điểm lịch sử bước ngoặt quan trọng này, Bác Hồ đã có nhiều cuộc họp với Trung ương và Hội đồng Chính phủ để giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị, quân sự, ngoại giao, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, nội vụ và tổ chức cán bộ…, đồng thời, tổ chức tiếp quản, giải phóng Thủ đô Hà Nội theo đúng Hiệp định Giơnevơ, nhanh chóng và có hiệu lực. Công tác tổ chức, bố trí cán bộ cách mạng trên cả nước được đặt ra và phải giải quyết kịp thời. Theo quyết định của Tru